HẬU CHIẾN, KHÔNG RIÊNG AI
Chương V
Trần Xuân An
1
Năm học 1980-1981 đã kết thúc. Kì thi tốt nghiệp phổ thông trung học đang bắt đầu. Huyên cùng một số đồng nghiệp khác có tên trong danh sách giám khảo, nên đã có mặt tại Đà Lạt ngay sau khi học sinh đã thi xong tại bảy trung tâm thi, bốn ở bốn huyện (Đạ Huoai chưa có lớp mười hai) và ba ở thành phố tỉnh lị của Lâm Đồng.
Đáp án đã được đánh máy thành nhiều bản, mỗi giám khảo đã nhận một bản. Trưởng phòng phổ thông, anh Nguyễn Công, kiêm cán bộ chỉ đạo bộ môn ngữ văn, hướng dẫn tổ giám khảo thảo luận để nắm chắc thang điểm. Được phân công làm tổ trưởng giảm khảo bộ môn ngữ văn, Huyên cũng phải chấm bài của thí sinh như mọi giám khảo khác, chỉ cộng thêm một công việc là kí nhận bài thi đã được rọc phách và giao nộp sau mỗi buổi chấm. Dĩ nhiên là phải chấm chéo, giám khảo vốn là giáo viên trường này phải chấm xấp bài của thí sinh trường kia. Tên trường cũng đã được mã hoá để tránh trường hợp giao trùng, chấm trùng.
Sau ba ngày, đã hoàn tất công đoạn chấm. Việc vào phách và lên bảng điểm đã có ban chỉ đạo hội đồng chấm thi cùng một nhóm giáo viên được điều động phụ trách. Nhưng cũng nhờ là tổ trưởng, nên khi kí tên giao nhận, nhìn thấy bảng điểm bộ môn có đầy đủ tên họ, trường thi của thí sinh, Huyên biết được điểm thi ngữ văn Hồng Vàng đã đạt được. Con số 7 không phải là cao so với điểm tối đa là 10, nhưng Huyên thấy chỉ có hai thí sinh đạt được điểm ấy trên toàn tỉnh. Hai bài thi của hai thí sinh đó, Hồng Vàng và một học sinh ở Đạ Nông, trường Huyên giảng dạy, được tổ giám khảo đặc biệt lưu ý, cán bộ chỉ đạo bộ môn cũng xem kĩ. Ngoài ra, Huyên không biết những môn còn lại, Hồng Vàng và học sinh Đạ Nông ấy đạt được bao nhiêu điểm.
Đó là niềm vui của Huyên, nhưng thật ra, chỉ là niềm vui ít ỏi trên nỗi buồn to lớn: đa số bài thi còn lại chỉ ở mức điểm trung bình và dưới trung bình. Tình trạng của bộ môn ngữ văn Việt trầm trệ như thế, không phải riêng ở Lâm Đồng mà trên cả nước! Một phần, do cách lập đáp án và cách chấm điểm. Nhưng phần lớn là do học sinh không thích học ngữ văn. Học sinh không thích học ngữ văn lại chính do bảng phân phối chương trình, quy định nội dung phân môn giảng văn có quá nhiều tác phẩm phục vụ tuyên truyền trong thời chiến tranh, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, trong khi đất nước đã thống nhất được sáu năm, Nam và Bắc đã thấy rõ nhau, hiểu rõ nhau... Trường hợp đạt được điểm 7 cũng đã là quý hiếm!
Sau buổi họp tổng kết đợt chấm thi và bữa ăn liên hoan, cùng với đồng nghiệp về lại khách sạn, thực ra chất lượng chỉ như phòng trọ, phòng nghỉ, do Sở Giáo dục lo liệu, bố trí, Huyên biết mình còn có một buổi chiều rỗng. Ngày mai, Huyên đã phải lên xe vào Thành phố Hồ Chí Minh để mua vé tàu lửa về nghỉ phép hè tại quê nhà Quảng Trị, vì đèo Ngoạn Mục trên đường xuống Phan Rang trước khi ra ga lớn Nha Trang, là một con đèo rất đẹp mắt nhưng khá nguy hiểm, nhất là ở thời điểm gần đây, đường đèo ấy có nhiều đoạn đã sạt lở và xe khách cũng thiếu phụ tùng để thay thế, tu sửa. Vé xe về TP.HCM. cũng đã được Sở Giáo dục đăng kí mua giúp rồi. Buổi chiều trống rỗng càng trống rỗng hơn, khi một vài đồng nghiệp đi thăm nơi này, chỗ khác. Huyên cùng một vài người bạn còn lại rủ nhau đi đến một quán cà phê nào đó để nhâm nhi, ngắm đường phố trung tâm Đà Lạt và hồ Xuân Hương.
Khi ngồi trong quán cà phê, Huyên hồi ức lại buổi sáng anh cùng Ngàn đã gặp hai chị em Hồng Vàng, Cúc Trắng trên đường ven hồ Xuân Hương kia, và đã cùng nhau đến quán Thanh Thuỷ. Mới đó, cũng đã hơn ba tháng trôi qua!
Thấy Huyên ngồi trâm ngâm, Chu nói:
- Năm học này, trường mình chỉ có anh Dương Sĩ Cảm và Huyên được viết báo cáo thành tích! Mình thấy anh hiệu trưởng Đặng Đắc San đi tìm hai ông để thúc nộp gấp mà! Phải vậy không?
Huyên gật đầu:
- Cho vui vậy thôi. – Huyên khiêm tốn, nói lảng đi –. Nghe đâu môn vật lí của Chu, trong kì thi này, học sinh đạt điểm cao cũng nhiều?
- Ừ, đề cũng không hóc lắm. – Có lẽ Chu đã biết tình trạng điểm môn ngữ văn, nên nói thêm –. Môn xã hội các ông bì sao được với những môn tự nhiên!
Huyên đành cười trừ:
- Đúng là học sinh thích học các môn tự nhiên hơn... Và cũng vì các môn xã hội có nhiều vấn đề phức tạp quá, kể cả đáp án, thang điểm, cách chấm... – Huyên nói, nét mặt và giọng điệu không hào hứng lắm –. ... Nhất là ở môn ngữ văn của bọn mình, phần lớn học sinh phạm lỗi diễn đạt, đặc biệt là ngữ pháp và chính tả... Không thể có học sinh đạt được điểm tuyệt đối như các môn tự nhiên của các ông được...
Uống cạn những giọt cà phê cuối cùng, Chu nhấp một ngụm trà rồi đứng dậy, bắt tay Huyên và bạn bè. Huyên biết Chu sẽ đến thăm nhà cô giáo Hậu cùng nhóm vật lí. Ngồi thêm một lúc, Huyên có ý định sẽ đến thăm một nhà thơ quen biết với Huyên. Anh ấy đã thu thập đủ thơ của những tác giả ở Lâm Đồng này, trong đó có Huyên, và đang xin giấy phép, kinh phí để ấn hành một tuyển thơ chung: “Như anh em một nhà”. Năm ngoái, cũng đã xuất bản được một tập thơ nhiều tác giả như vậy. Nhan đề của bài thơ Huyên viết đã được chọn làm nhan đề chung cho cả tập: “Đất gọi thầm” (*). Huyên chào các bạn, nói Huyên đi thăm một người quen, rồi lững thững bước ra đường một mình, trong khi các đồng nghiệp còn muốn ngồi nán lại để nghe nhạc và ngắm phố phường, phong cảnh hồ Xuân Hương thơ mộng.
Tuy thế, không hiểu thế nào Huyên lại có ý định sẽ đến nhà Hồng Vàng trước khi đến nơi ở của nhà thơ quen biết ấy. Huyên thầm nghĩ, đúng rồi, nếu đến nhà Hồng Vàng theo địa chỉ Huyên còn nhớ được, ở lá thư hồi tháng ba vừa rồi Hồng Vàng gửi cho anh, Huyên phải đi trước khi chiều xuống. Đó là một nơi Huyên chưa đặt chân tới bao giờ.
Huyên hỏi đường qua một người tình cờ gặp, và lại chậm rãi bước tiếp. Đường phố Đà Lạt là những con dốc, vươn dài giữa những khu nhà xây cất trên những triền đất nghiêng nghiêng, duỗi mình giữa những đồi thông xanh tươi suốt bốn mùa. Huyên bước, nhưng vẫn cảm thấy có gì đó thật vướng víu trong lòng. Dẫu sao Hồng Vàng vẫn còn là học sinh phổ thông trung học, mặc dù đã qua kì thi tốt nghiệp, đã mười tám tuổi rưỡi. Dẫu sao Huyên cũng là thầy giáo, mặc dù mới bước vào tuổi hai mươi lăm. Huyên bước, nhưng cảm thấy mình nên quay gót, rồi vẫn cứ bước tới.
Cuối cùng Huyên cũng đi đến đúng số nhà và tên đường. Ngôi nhà của Hồng Vàng đã ở trước mặt anh. Để vờ như ngẫu nhiên, vô tình, Huyên chỉ thoáng nhìn trong khi đang bước. Qua cổng nhà, lẽ ra Huyên đứng lại, tìm nút bấm chuông hay gọi khẽ tên Hồng Vàng, nhưng Huyên lại bước thẳng.
Đến lúc đi hơi xa một quãng, Huyên mới nhận thấy ánh nắng chiều đã ngã bóng, trời se lạnh hơn nhiều. Anh mặc lại chiếc áo khoác va lua đang vắt trên vai. Huyên lại phải hỏi đường để đến nhà người bạn thơ, lớn hơn Huyên khoảng mươi lăm tuổi.
Huyên mỉm cười một mình, thấy mình ngớ ngẩn với tâm trạng chẳng khác nào một cậu học trò cuối bậc trung học! Nhưng cũng không hoàn toàn như vậy, chút vướng víu chính, Huyên tự hỏi, phải chăng vì anh đã là thầy giáo, Hồng Vàng vẫn còn là học trò phổ thông!
2
Huyên đã từ Quảng Trị quê nhà vào lại Đạ Nông, sau hai tháng nghỉ phép hè.
Chiếc xe khách TP.HCM. – Đà Lạt, khoảng hai mươi bốn chỗ ngồi, có lẽ là một trong ít chiếc xe tốt nhất còn sót lại, đã đỗ ở lề đường, sát quán “Bít tất”, phía đối diện với cột cây số 270. Huyên xuống xe với chiếc xách cầm tay.
Khi xe chạy vụt đi, Huyên thấy khung cảnh quanh Trường Phổ thông trung học Đạ Nông trước mặt anh khác với chính nó cách đây hai tháng. Lúc Huyên rời trường, ngô mới gieo hạt, cao mới nửa bắp chân. Bây giờ đang là mùa mưa, những khoảnh đất trồng ngô hai bên và sau nhà ở tập thể của trường lại đang xanh ngắt, cao ngang ngực, lộ rõ dấu vết đã được thu hoạch trái đợt đầu.
Huyên bước chéo qua đường để vào cổng trường. Sân trường buổi chiều vốn đã vắng lặng, nay đã lưa thưa mọc lên những vạt cỏ dại vì thiếu bóng dáng học sinh trong dịp nghỉ hè, trông càng hoang vu hơn. Nhưng Huyên vẫn tin chắc ở dãy nhà tập thể giáo viên ít ra cũng đã có mặt dăm người. Anh bước vào lối đi nhỏ giữa văn phòng và dãy phòng học cũ.
Huyên rất vui mừng khi thấy ở trước ngôi nhà nhân viên, chị Ninh đang bồng con đứng bên chồng, cười chào:
- A! Thầy Huyên mới vào! Thầy có một lá thư bưu điện mới đưa tới đây!
Huyên đến gần:
- Chào anh chị! – Và Huyên rút từ xách tay chút quà nhỏ, dúi vào tay cháu bé –.
Chị Ninh vào nhà, quay ra ngay với phong thư.
- Cảm ơn chị Ninh nghe!
Huyên nhận ra ngay nhờ bốn chữ viết tắt: L.T.H.V.. Thư Hồng Vàng! Nhận thư xong, Huyên nói:
- Xin chào anh chị.
Huyên bước về phía nhà tập thể. Phòng của Huyên và Chu là phòng giữa của dãy nhà. Chu vẫn chưa có mặt. Huyên tìm chìa khoá trong xách tay và mở cửa phòng, bật đèn. Phòng ở vẫn như hai tháng trước đây.
Việc đầu tiên là Huyên mở thư để đọc.
“Đà Lạt, ngày 10 tháng 8 năm 1981
Kính gửi: Thầy giáo Nguyễn Phan Huyên
Thưa thầy,
Em chỉ dám viết ngắn gọn để thưa với thầy về hai kì thi của em.
Em đã đỗ kì thi tốt nghiệp phổ thông trung học vừa rồi với số điểm là 32 (bốn môn thi). Và em cũng đã đi TP.HCM. để dự thi vào Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm ở đó. Mức làm bài, em tự đánh giá là có khả năng đỗ.
Dẫu đỗ vào đại học hay không, em cũng đã thấy mình đang bước vào năm thứ nhất lứa tuổi trưởng thành, chứ không thể cứ mãi là bé bỏng.
Nói thế, nhưng xin thầy cứ hi vọng là em sẽ đỗ như em đang hi vọng. Và cũng không còn cảm thấy nữa, mà chắc chắn là em đã bước qua rồi tuổi học trò trung học.
Em rất mong được gặp lại thầy.
Kính chúc thầy luôn vui khoẻ.
Em,
L.T.H.V.”
Đây là lá thư thứ hai Huyên nhận được từ cô học trò Hồng Vàng. Cũng như lần trước, niềm vui tràn ngập lòng anh. Trong niềm vui đó, Huyên thử tính nhẩm, và thấy điểm 7 môn ngữ văn lại là điểm thấp nhất trong bốn môn, nhưng Hồng Vàng vẫn yêu thích môn ngữ văn nhất. Anh biết, điểm ngữ văn phải cộng thêm từ 1 đến 2 điểm dung sai, hay có thể gọi là điểm đặc thù bộ môn, nếu cần thiết phải so sánh điểm với các môn khác: số 7 đó có thể bằng 8 hay 9. Và dù sao, điểm 7 Hồng Vàng và một học sinh Đạ Nông đạt được cũng đã vượt xa các điểm trung bình và dưới trung bình của tất thảy các thí sinh khác trong kì thi.
Huyên kéo ghế, ngồi vào bàn viết, và viết ngay ý tưởng đó để kịp gửi thư ngay cho Hồng Vàng trong chiều nay, những mong Hồng Vàng sẽ được chút nào khích lệ, động viên. Sau đó, anh đi quanh nhà tập thể giáo viên để xem thử những ai đã có mặt. Huyên rất vui khi thấy anh Văn, giáo viên địa lí, ở một trong năm phòng đơn phía sau. Một cái bắt tay chào nhau thật chặt.
- Tôi đi ngay lên bưu điện huyện, lát nữa về. Sau đó anh em mình ra quán 99 nghe!
- Làm gì phải đi bưu điện gấp vậy?
Huyên cười, nói có việc cần. Và Huyên ra nhà chị Ninh để mượn xe đạp.
Huyên phải vượt vài ba con dốc mới đến nơi. Mơ hồ tiếng thác Liên Khương theo gió chiều vọng đến, khi anh bỏ phong thư vào thùng thư chính.
3
Anh Văn buông cây đàn ghi ta khi thấy Huyên xuất hiện ở cửa sổ, với tay lấy chiếc áo len màu xanh đậm, cầm ở tay, và bước ra.
Hai người bạn đồng nghiệp cùng đi đến quán 99 như đã hẹn.
Dưới tán cây xoài thấp nhưng xum xuê lá, tiếng nhạc hoà tấu êm nhẹ từ dàn loa trong nhà sàn vọng ra, hương cà phê phin thơm ngát.
Khoảng thời gian cuối năm học vừa rồi, những giáo viên hay ra ngồi ở quán 99 này thường yêu cầu chủ quán cho nghe đi nghe lại bài “Quán bên đường”, một bài thơ được ghi là khuyết danh tác giả do Phạm Duy phổ thành nhạc. Lần này, anh Văn đề nghị Huyên vào quầy để nhờ cô con gái của chủ quán cho nghe lại bài ấy.
“... Rồi em hỏi anh làm chi?
- Cầm bút, để viết ngày đêm...
- Viết gì?
- Đời thối, phải nói là thơm. Ngòi bút là chiếc cần câu miếng cơm...
... Em hỏi nghệ thuật là chi?
- Là đui, là điếc, là câm, mà đi...”.
Huyên lại châm một điếu thuốc lá, ngồi im lặng lắng nghe. Từ những năm trung học, anh đã nghe bài hát này. Bẵng đi một quãng thời gian dăm bảy năm, sống trong tâm nguyện làm thơ vì đất nước, với nhãn quan mới, Huyên hầu như quên mất. Gần đây, Huyên mới thấy bài thơ đã trở thành ca khúc ấy có phần gần gũi với bài báo “Viết về chiến tranh” của Nguyễn Minh Châu, bài tiểu luận về “chủ nghĩa ‘phải đạo’” của Hoàng Ngọc Hiến, tác giả đã xem “phải đạo” chính là đặc điểm của văn học vài thập niên qua ở Miền Bắc và hiện nay trên cả nước. Tất nhiên là “Quán bên đường” đau hơn rất nhiều, vì hình ảnh, câu chữ cụ thể và trực tiếp hơn, nên xoáy sâu hơn vào trái tim người nghe. Nhưng nó là tiếng kêu đòi ở Miền Nam, dưới chế độ Ngô Đình Diệm, đã bị lật đổ từ 1963, được phổ biến rộng rãi sau năm 1963 ấy, nên không nổ vang, chấn động mạnh như hai bài của Nguyễn Minh Châu, Hoàng Ngọc Hiến, trong hai năm 1978 và 1979, chưa xa lắm với năm 1981 này. Tất nhiên hai bài ấy vẫn thể hiện tinh thần trách nhiệm, không chứa đựng mục đích chính trị phản động bên ngoài văn học.
Bất chợt, xuất hiện ngoài cổng quán bóng dáng của Nho. Nho cười thật tươi, bước vào, ngồi trên khúc cây dựng làm ghế bên cạnh Huyên:
- Mình xuống Tùng Nghĩa, vừa lên lại trường, nghe anh em nói Huyên mới vào, đã cùng anh Văn ra đây!
- Rất vui khi lại gặp nhau!
Cô gái tiếp viên từ nhà sau bước ra, hỏi thầy giáo Nho dùng thức uống gì.
- Vẫn “Quán bên đường”! – Nho phớt tỉnh –.
- Không. Em hỏi thầy uống gì?
- Vẫn “Quán bên đường”! – Nho lại vờ phớt tỉnh –.
Cô gái bật cười, đứng chờ câu trả lời của Nho. Huyên phải “phiên dịch”:
- Ông thầy này nói cho một cà phê phin và nghe lại hai lần bản “Quán bên đường”.
Nho bị bắt buộc phải đính chính:
- Không, một chanh rum và hai lần “Quán bên đường”.