Web Tác giả Trần Xuân An
Trần Xuân An
biên soạn (tổ chức nội dung, khảo luận, bị chú các bài khảo luận của các tác giả,
chú giải thơ, chuyển ra ngôn ngữ thơ
trên cơ sở Thi tập chữ Hán do Nnc. Trần Viết Ngạc sưu tầm,
bản phiên dịch của Nnc. Trần Đại Vinh, Nnc. Vũ Đức Sao Biển, Nnc. Nguyễn Tôn Nhan
[Ts. Ngô Thời Đôn hiệu đính các bản dịch]).
Xem phần nguyên tác chữ Hán (hình ảnh quét chụp [scan]):
http://www.tranxuanan-writer-3.blogspot.com
http://www.tranxuanan-writer-4.blogspot.com
Bài 11
HỌA AN DŨNG HUYỆN DOÃN BÙI
NGUYÊN VẬN
Cuồng phân vũ báo bắc sơn biên
Phục việt nhân xưng Triệu Lí hiền
Bất sủy dung tài thao dữ tá
Cố linh nan bộ thất phù điên
Hà dương đới lệ tồn lao tích
Vô phụ giang sơn cửu thiệp duyên
Phương lược khả ư hình thế định
Thâm tâm nan đắc hoạch lai tiền.
TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm
11
HỌA NGUYÊN VẦN THƠ CỦA
TRI HUYỆN AN DŨNG HỌ BÙI
Gió lùa dữ từ bắc sơn biên
Giấu búa đời khen Triệu Lí hiền
Chẳng liệu gỗ thường khôn chống đỡ
Cho nên khốn bước, lỡ phò nghiêng
Bao giờ sông núi ghi công trạng
Chẳng phụ non sông mấy nỗi niềm
Phương lược còn ra hình thế đặt
Trong lòng khó hoạch định ngay liền.
TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ
11
HỌA NGUYÊN VẦN THƠ CỦA
TRI HUYỆN YÊN DŨNG (1) HỌ BÙI (2)
Sương mù cuồng điên [thổi] tờ truyền tin có gắn
lông chim (3) [đến] núi biên giới [phía] bắc
Giấu cây búa hình phạt (4), người [đời] gọi Triệu, Lí (5)
[là những người] hiền [tài]
Không đo lường [loại] gỗ tầm thường (: tài xoàng)
[vốn] tham lạm giao hảo với [các] tướng
ngoại bang (hoặc tả tướng bên vua,
hoặc bọn tả đạo) (6)
Nên khiến [cho] khốn bước, [trót] sai lầm phò giúp
đỉnh cao nghiêng (7)
Bao giờ xứng đáng [cho dù] “non mài sông dải” (8) vẫn
còn [ghi nhận, bảo tồn các] công lao, chiến tích
Đừng phụ bạc núi sông [đã] nén chịu (chịu đựng)
[bao nhiêu] việc liên lạc (giao dịch)
[phải] trải qua (9)
Phương cách, sách lược có thể tùy theo địa hình,
tình thế [mà] định ra
Tâm trí sâu xa khó [bề] vạch [ra] được [từ] trước
[cho đến mãi] về sau (một cách cố định,
bất chấp sự chuyển biến của thời và thế).
(1) An (?) Dũng (tên huyện); ĐNNTC., tập 4, sđd., tr. 66 - 67, phiên âm là Yên Dũng, thuộc Bắc Ninh.
(2) Chưa rõ vị tri huyện họ Bùi này là ai.
(3) “Vũ báo”: tờ truyền tin có gắn lông vũ, biểu tượng cho việc thông tin khẩn cấp. Xem từ “vũ hịch”, TĐHV., sđd., tập hạ, tr. 566.
(4) “Phục việt”: giấu búa. Búa là vật biểu trưng cho uy quyền thi hành hình án (xem từ “phủ việt”, TĐHV., sđd., tập hạ, tr. 136). Dịch là “giấu uy”?
(5) Có lẽ là Triệu Thị Trinh (Bà Triệu, mất năm 248, lúc mới 23t) và Lí Nam Đế (tức Lí Bôn, khởi nghĩa chống nhà Lương, Trung Hoa đô hộ, vào năm 544 - 548). Hay Triệu là Triệu Quang Phục (Triệu Việt Vương, từng giúp Lý Nam Đế, sau đó tiếp tục khởi nghĩa chống ách đô hộ Trung Hoa từ 549 - 571)?
(6) Tá = tả. Lúc này tác giả đang lãnh nhận nhiệm vụ thương thuyết với các tướng nhà Thanh (ĐNTL.CB., tập 31, tr. 357, 371; tập 32, tr. 11, 30, 69 - 72).
(7) Chỉ các tướng ở mặt trận biên giới phía bắc.
(8) Lệ Sơn đái Hà (núi Thái Sơn chỉ còn nhỏ như viên đá mài, sông Hoàng Hà bé lại như đai áo); hoặc: đái (đới) lệ Sơn Hà, cũng với nghĩa như trên. “Núi mài sông dải” là thành ngữ từ điển tích này.
Đó là lời thề của Hán Cao Tổ với nghĩa bóng: cho dù Trung Hoa có sự thay đổi lớn lao nào (như dâu bể) thì con cháu chư hầu vẫn muôn đời trường cửu. Lời thề ấy Hán Cao Tổ (Lưu Bang) thề trước các người được phong hầu kiến ấp (chư hầu thời phong kiến) [xem Bửu Kế, Từ điển từ ngữ tầm nguyên, Nxb. Trẻ, 2000, tr. 177 và tr. 372].
(9) Nỗi khổ tâm của Nguyễn Văn Tường khi nhận lãnh nhiệm vụ thương thuyết với các tướng nhà Thanh (bấy giờ, trong nhân dân có lắm người nghi ngại, phẫn nộ về việc quân nước Thanh lần này kéo sang nước ta, do ám ảnh về quân nhà Minh, nhà Thanh trước đó...). Xin xem tiếp các bài thơ khác của tác giả, ghi nhận về việc thương thuyết này: bài 12 và bài 26.
11
HỌA NGUYÊN VẦN THƠ CỦA
TRI HUYỆN YÊN DŨNG HỌ BÙI
Sương cuồng, tin khẩn, Bắc đồn biên
Giấu búa, đời khen Triệu, Lí hiền
Chẳng liệu gỗ thường tham chạm “tả” (1)
Nên sai chân khốn trót phù “nghiêng”
Xứng cùng đai đá (2), còn công trạng
Chẳng phụ non sông phải ngoại liên
Phương lược còn tùy hình thế đặt
Trước sau khó vạch giữa lòng riêng.
(bản biên soạn)
(1) Xem chú thích (6), bản dịch nghĩa bài thơ này.
Ở đây tạm dùng hai chữ “chạm “tả””. Trong tiếng Việt có các từ ghép: chạm mặt, chạm lời, chạm ngõ, chạm súng, chạm khắc... “Gỗ” ở đây là tài năng của phái viên thương thuyết, có thể “chạm” với các nghĩa trên. Nguyễn Văn Tường đã “chạm khắc” lẫn “chạm súng...” trong thơ, tấu sớ, công văn giao thiệp... với một tài năng lớn đích thực.
(2) Xem chú thích (8), bản dịch nghĩa bài thơ này.
Xin dịch thoát cho để ý thơ của tác giả dễ cảm thụ:
“Cạn sông mòn núi còn công giúp
Lo nước thương dân chịu “ngoại” phiền”
“Ngoại” (trong dấu nháy nháy với ý phản cảm (*)): quân nhà Thanh giúp ta tiễu phỉ nhưng cũng gây nhiễu nhương cho nhân dân.
Cước chú của bài thơ số 11, thuộc Phần thứ III (Thi tập Nguyễn Văn Tường):
(*) Ở các trường hợp như thế này, dấu ngoặc kép thường đọc là dấu nháy nháy, khác với các trường hợp khác vẫn đọc là ngoặc kép một cách bình thường, với ý nghĩa đúng quy tắc. Xin vui lòng lưu ý: trong cuốn sách này chỉ có một vài trường hợp là dùng dấu nháy nháy với ý phản cảm (sắc thái phản cảm đó chủ yếu do ngữ cảnh cụ thể quy định).
Bài 12
HỌA THANH QUỐC THÁI BÌNH PHỦ
TỪ DIÊN HÚC NGUYÊN VẬN
Viêm giao nhật úc trục minh diên
Cận bách chu tinh kháp hảo thiên
Xuất hiệp biên ngung thành hổ huyệt
Huyền thao nhung trướng khởi long niên
Tứ thành sô túc lao phi vãn
Tam tải nham khê phí thiệp duyên
Tráng du cụ tại quy nguyên lão
Trùng đáo nan lưu Hán thú hiền.
TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm
12
HỌA NGUYÊN VẦN
THƠ CỦA TRI PHỦ THÁI BÌNH NƯỚC
THANH TỪ DIÊN HÚC
Trời nóng nước Nam giục quạ gào
Gần trăm năm mới đẹp trời cao
Biên cương sổ cũi thành vùng máu
Võ trướng treo mưu, mở Tết đào
Cỏ lúa bốn thành sờn huyệt mộ
Ba năm khe suối phí công lao
Mưu hay còn đó, về nguyên lão
Đến nữa khôn lưu “hảo hớn” nào!
TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ
12
HỌA NGUYÊN VẦN THƠ CỦA TRI PHỦ
THÁI BÌNH NƯỚC THANH TỪ DIÊN HÚC (1)
Ruộng đồng (ngoại thành) nồng nực, đầm phá ngập
nắng, [lũ] diều hâu [ăn xác người]
liên tục gào réo
Gần trăm vòng quay [của các] ngôi sao,
hành tinh (2), chim muông hót gọi
(: chúng ta xứng hợp dưới) vòm trời tốt lành
Xảy ra sự lờn mặt, góc biên cương thành hang cọp
Treo cao (giấu kín) phương sách chiến đấu, [nơi]
màn trướng quân đội (nơi tướng sĩ
bàn mưu tính kế), khởi động năm rồng
Bốn thành lũy, cỏ khô [và] thóc gạo, [nhân dân]
mệt khàn [với] sự thăm viếng tang chế
gấp gáp (chôn cất vội vàng)
Ba năm, hang núi, khe non, hao tổn [bởi các cuộc]
giao dịch [phải] lặn lội, leo trèo
Mưu lược mạnh mẽ [như trai trẻ] bày biện đủ đầy [mãi] còn đó;
[khi] về [nước sẽ được trọng vọng như] nguyên lão (vị
quan lão thành có ngôi cao)
[Nếu] lại đến, [nước Nam] khó [lòng] lưu giữ [cho dù là]
người hiền tài có đức liêm khiết “Hán tộc” (3).
(1) Từ Diên Húc còn là tác giả “An Nam thực lục”, cuốn sách ghi chép, nghiên cứu về Việt Nam (ĐNTL.CB., tập 32, 101 - 102; tập 35, tr. 194...; NĐNĐDVP. & TH., tr. 140 - 141).
(2) Có lẽ tính từ năm Quang Trung đánh bại quân Thanh (1789). Hẳn tác giả vừa giao thiệp vừa ngầm nhắc lại mốc lịch sử đó? Hoặc giả, nhắc đến mối quan hệ giữa Nguyễn Ánh và Thanh triều?
(3) Đây là một việc khá tế nhị trong ngoại giao, chính trị bởi mâu thuẫn giữa Thái Bình Thiên Quốc (tàn dư, biến tướng là bọn giặc Cờ quấy phá nước ta) với nhà Thanh còn là mâu thuẫn dân tộc (Hán tộc, Mãn tộc). Câu này còn ngầm lời cảnh cáo... Xin xem thêm chú thích (1), bản dịch nghĩa, bài số 26.
12
HỌA NGUYÊN VẦN THƠ CỦA
TRI PHỦ THÁI BÌNH NƯỚC THANH
TỪ DIÊN HÚC
Diều cú réo hoài xứ nắng hồng
Trăm năm chim hót đẹp trời Đông
Góc biên, lờn mặt, thành hang cọp!
Doanh tướng, giấu mưu, mở dịp rồng
Thóc cỏ, bốn thành, than khàn đám
Suối hang, ba Tết, lội tổn công
Ở nên hùng kế, về nguyên lão
Lại đến, khó lưu tài “Hán” ông!
(bản biên soạn)
Bài 13
ỨC KINH ẤU NỮ
Kim niên ấu nữ ngũ niên xuân
Mỗi ức thần hôn lãng tiếu tần
Dục tỉ nam nhi an nhĩ mẫu
Khước kinh hồ thỉ lão biên trần.
TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm
13
NHỚ CON GÁI TRẺ THƠ Ở KINH ĐÔ
Năm nay tuổi bé lên năm rồi
Mỗi nhớ sớm hôm chợt nói cười
Muốn sánh con trai yên trí mẹ
Chợt lo hồ thỉ bụi già đời.
TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ
13
NHỚ CON GÁI TRẺ THƠ Ở KINH ĐÔ (1)
Năm nay con gái trẻ thơ [đã trải qua] năm mùa xuân
Mỗi lần [nhớ con, đều] nhớ [từ] sáng sớm [đến] chiều
hôm [con] hồn nhiên, tinh nghịch, cười hoài
(nhiều lần)
Muốn ví [con] là con trai [cho] yên [lòng] người mẹ
[của] con
Chợt lo [là con trai sẽ bị] cung, tên (2) [của chiến
tranh] lại làm [cho] già nua với [khói] bụi biên giới!
(1) Kinh đô Huế.
(2) Hồ thỉ (cung tên): chí làm trai.
13
NHỚ CON GÁI TRẺ THƠ Ở KINH ĐÔ
Năm nay con gái lên năm rồi
Hoài nhớ sớm hôm hay nhoẻn cười
Muốn ví là trai yên dạ mẹ
Chợt lo súng ải (1) bụi già đời!
(bản biên soạn)
(1) Hồ (cung), thỉ (tên) + biên (biên giới). Tạm dịch: Súng ải.
(2) “Hồ thỉ”: chí làm trai; nếu dịch theo nghĩa bóng này:
“Chợt lo tráng chí bụi già đời!”.
Bài 14
ĐẮC BÁO NGUYÊN TÔN SINH
Thử thân gia khánh hựu quân ân
Cuộc ngoại phù trầm khởi túc luân (luận)
Niên cận ngũ tuần tằng sự tổ
Thư lai thiên lí báo sinh tôn (1)
Quyên ai vị đáp thường ưu lão
Lam chướng tuy thâm cảm ái ôn
Trung hiếu ngô môn bồi dưỡng hậu
Miễn tai tố nghiệp các nghi đôn.
TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm
14
ĐƯỢC TIN SINH CHÁU NỘI ĐẦU
Thân này, mừng họ, ơn vua ban
Chìm nổi giữa đời chẳng đủ bàn
Năm chục, ta cầu, tiên tổ sáng
Dặm nghìn, con viết, đích tôn ngoan
Ơn sâu chưa đáp từng lo lão
Lam chướng đã nhiều dám thích nhàn
Trung hiếu nhà ta bồi dưỡng tốt
Gắng noi nghiệp cũ, trau nếp văn.
TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ
(1) Bản chép chữ Hán nhầm, cứ chép theo đầu đề là “tôn sinh”. “Sinh tôn” mới hợp vần và chỉnh đối, nghĩa vẫn vậy.
14
ĐƯỢC TIN SINH CHÁU NỘI ĐẦU
Đó là phúc của bản thân mình, cũng là ơn vua (1)
[Nhưng] chìm nổi [như thể] ngoài cuộc, bàn lo [cho lễ
mừng ấy] làm sao đủ đầy, trọn vẹn!
Tuổi [đã] gần năm mươi, [thường] trải việc thờ phụng
tổ tiên (2)
Thư đến [từ] ngàn dặm, [mới] báo [đứa] cháu [được]
sinh ra
Bụi bặm [giũ sạch ở] khe nước (: ơn mưa móc) (3) chưa
đáp đền, [nên] mãi lo [bản thân chóng] già nua
Bệnh sốt rét [do] khí núi độc (3), tuy lạm (nhiễm quá
mức), [vẫn đâu] dám yêu thích vẻ ấm áp
[của cảnh nhà]!
Lòng trung, đức hiếu nhà (họ) mình vun đắp, nuôi
dưỡng đầy đặn (4)
Gắng nhé! [Cố sức cho] truyền thống gia phong cao khiết,
trong sạch [hoặc vốn có], [mọi điều,
mọi người] đều [phải] nên trau dồi [dốc sức] (4).
(1), (2), (4) Có lẽ ngoài điều tâm niệm của kẻ sĩ Nho giáo là tam ân (ơn dân, ơn nước, ơn vua), tác giả còn muốn nhắc đến sự khoan dung khỏi bị tội lây do thân nhân (thân sinh dính líu vào một cuộc nổi dậy nhỏ bởi sự áp bức của quan huyện hoặc lí tưởng) (?) và sự xóa án về chữ “Phúc” (Phúc Tường: cái tốt đẹp trong lòng; Văn Tường: cái đẹp phô trương ra ngoài), khi Tự Đức lên ngôi vua (xem ân chiếu chung, ĐNTL.CB., sđd., tập 27, tr. 39 - 40). Án về chữ “Phúc” (còn đọc là “Phước”), chỉ do sự chép nhầm từ “Phúc” nghĩa là “nỗi niềm trong lòng”, “trong lòng dạ” thành chữ “Phúc” có nghĩa là “những điều may mắn, tốt đẹp” – chữ “Phúc” của họ Nguyễn Phúc (hoàng tộc) –, bởi các học quan (Bộ Lễ), quan chủ khảo, quan đề điệu, trên danh sách tú tài trúng tuyển do chính các quan ấy viết... Phải chăng là vậy? Vả lại, họ Nguyễn Phúc hoàng tộc đã được vua Minh Mạng đổi thành Tôn Thất (đối với chi xa), hoặc đã định cách đặt tên theo đế hệ thi (chi chính), phiên hệ thi (chi gần), từ trước năm 1832 (Xem: ĐNTL.CB., tập 11, sđd., tr. 222; tập 23, sđd., tr. 119 – 122)… Về bản án “Nguyễn Phúc”, họ vua, xem ĐNTL.CB., sđd., tập 24, tr. 163 - 165; Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục, bản dịch, sđd., Nxb. TP. HCM., 1993, tr. 297: [?!]. Xin xem chú thích (16) ở bản dịch nghĩa bài số 56 (*).
(3) Nguyên văn: “quyên ai” (bụi bặm / trong sạch; dòng nước nhỏ [và] bụi bặm; lần lượt [được] chọn lọc [?]...).
“Quyên ai” đối với “lam chướng”.
“Lam” (khí núi bốc lên); “chướng” (bệnh ở bên trong).
Đó là hai cặp từ ghép chính phụ hoặc đẳng lập (danh từ + danh từ):
Bụi-bặm [và / ở] khe-nước-nhỏ...
Bệnh-sốt-rét [và / do] khí-độc-núi-rừng.
Do đó, có lẽ “quyên ai” là từ chỉ việc tắm gội (các nhà nho thường dùng thành ngữ: “tắm gội ơn mưa móc”), lễ tẩy trần, quyên cát (trai giới trong sạch, chuẩn bị cho việc thiêng liêng như mừng năm mới, kị giỗ...).
Chắc “quyên ai” là nghi thức đền đáp, nho sĩ Nguyễn Văn Tường, trang trọng một cách lặng lẽ, thực hiện khi nhận được tin có cháu nội đầu (“nguyên tôn”), với niềm xúc động sâu xa.
Tuổi gần năm mươi mới có cháu nội đầu tiên là khá muộn, trong thời bấy giờ!
Bài thơ hé mở về thân thế, hoàn cảnh riêng tư của tác giả.
[Về các từ, xem TĐHV., sđd., tr. 4, 191, 480 (tập thượng), 169 (tập hạ)].
Tuy nhiên, “quyên ai”, theo Thiều Chửu, HVTĐ., sđd., tr. 232, 345, còn có nghĩa là hạt bụi tí tẹo, ví với sự bé mọn. Với nghĩa này, từ tố “quyên” (dòng khe nhỏ, tia nước nhỏ) bị mờ nghĩa hoàn toàn. Lẽ ra phải là “hạt bụi tơ sương”. “Quyên ai” trở thành một hình ảnh tự ví, tự xưng, với tập quán khiêm tốn: thân bụi, phận sương.
Xin ghi chép thêm cho rộng đường cảm thụ, cùng với vài dòng mạo muội suy luận.
14
ĐƯỢC TIN SINH CHÁU NỘI ĐẦU
Ơn vua, thọ tộc, phúc thông gia
Ngoài cuộc, sao bàn! Chìm nổi xa!
Năm chục, tuổi kề, hương lạy vọng
Dặm ngàn, thư báo, cháu sinh ra
Chưa đền, bụi – suối (1) lo mau lão
Dẫu lạm sốt – sương, dám ấm nhà!
Trung hiếu họ mình đầy đặn đắp
Gắng trau nghiệp cũ, nếp ông cha!
(bản biên soạn)
(1) Tạm dịch:
Bụi mưa, chưa đáp, lo mau lão
Sương sốt, dù vương, dám ấm nhà!
Hoặc:
Thân bụi chưa đền, lo sớm lão
Phận sương dù nhiễm, dám yên nhà!
Cước chú của bài thơ số 14, thuộc Phần thứ III (Thi tập Nguyễn Văn Tường):
(*) Xin xem thêm: Trần Xuân An, “PCĐT. Nguyễn Văn Tường”, bộ truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử, (bốn tập), tập I: truyện thứ nhất, “Quốc tính và người học trò tội đồ không chịu đổi tên”. Ở truyện này, vấn đề đó đã được giải quyết một cách chi tiết và xác thực hơn.
Bài 15
TẶNG BẮC PHIÊN
PHẠM QUAN THÀNH
QUY TỈNH THÂN BỆNH
Quân thúc quy trang, ngã hựu hành
Bạch đầu chỉ vị biệt li sinh
Lâm kì tương tống nan tương biệt
Vạn mộc tùng trung nhất điểu thanh.
TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm
15
TẶNG BỐ CHÁNH BẮC NINH
PHẠM QUAN THÀNH
VỀ THĂM BỆNH CHA MẸ
Bạn gói hành trang, tôi lại đi
Bạc đầu chỉ sống với chia li
Đến khi đưa tiễn khôn từ tạ
Vọng giữa khóm cây tiếng tử quy! (1)
TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ
(1) Tử quy, còn có tên khác, là đỗ quyên, thường gọi là chim cuốc hoặc chim quốc quốc. Thơ Bà Huyện Thanh Quan có câu:
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
(Qua đèo Ngang)
Chúng tôi (TXA. – nbs.) tạm thay vào hai chữ “tử quy” này, bởi lúc bấy giờ nước ta đã bị Pháp bức chiếm ba tỉnh Miền Đông Nam Kì (1862) và Phan Thanh Giản “dâng đất” tiếp ba tỉnh Miền Tây (1867) cho chúng! Vả lại, tứ thơ rất sâu, cực kì hàm súc: “Vạn khóm cây trong một tiếng chim”, một tiếng chim gợi nên cả một miền Đất nước, một không gian mênh mông, xa cách... Cả một phức hợp cảm xúc, nỗi niềm! Nhưng, đây chỉ là một cảm nhận, có lẽ hơi khiên cưỡng, lúc ướm thử vần!
Xin xem thêm : “Truyện đọc”, lớp 5, Đỗ Quang Lưu, Vân Thanh tuyển chọn, Nxb. Giáo Dục, 2000, tr. 31 - 36: “Sự tích chim quốc” (Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, Kho tàng truyện cổ Việt Nam, tập 1). Đó là một truyện kể về tình bạn thắm thiết giữa hai nhân vật, Quắc và Nhân.
15
TẶNG BỐ CHÁNH BẮC NINH
PHẠM QUAN THÀNH (1)
VỀ THĂM BỆNH THÂN SINH
Bạn gói gắm hành trang [để] về [nhà], tôi [cũng]
lại ra đi
Bạc đầu chỉ [chịu đựng] bởi đời sống [quá nhiều lần]
chia biệt!
Đang khi cùng tiễn chân nhau [nhưng] khó cùng cách
biệt nhau
[Ngỡ như nghe, thấy] vạn khóm cây [bạt ngàn lại chỉ
gói trọn] trong một tiếng chim!
(1) Phạm Thận Duật còn có biệt hiệu Vọng Sơn, Quan Thành. Ông là tác giả của các cuốn sách: Hưng Hóa kí lược, Quan Thành tấu tập, Vãng sứ Thiên Tân nhật kí, Quan Thành văn tập (*).
“Quan Thành”: nhất định không thay đổi quan niệm (cách nhìn nhận).
“Vọng Sơn”: ngọn núi để làm tiêu đích định hướng cho người đi đường rừng; núi để đặt trạm quan sát...
Hình tượng trong danh hiệu tự đặt thường để tỏ chí mình.
15
TẶNG BỐ CHÁNH BẮC NINH
PHẠM THẬN DUẬT
VỀ THĂM BỆNH THÂN SINH
Bạn gói hành trang, tôi lại đi
Bạc đầu chỉ bởi kiếp sinh li (1)
Đang khi cùng tiễn khó cùng biệt
Vạn khóm xanh trong tiếng tử quy! (2)
(bản biên soạn)
(1) Nếu Nguyễn Văn Tường và Phạm Thận Duật đều là “vọng sơn”, hai ngọn núi kề nhau, chắc hẳn tình bạn của họ không bao giờ “tương biệt”. Ở một khía cạnh nào đó, câu thơ thể hiện tâm thức về “kiếp người” của tác giả. Làm người, thấu hiểu khổ đau và hạnh phúc...
(2) Vạn núi một xanh tiếng tử quy!
Cước chú của bài thơ số 15, thuộc Phần thứ III (Thi tập Nguyễn Văn Tường):
(*) Xem: Nhiều tác giả, “Nguyễn Trọng Hợp, con người và sự nghiệp”, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hội sử học Hà Nội & Nxb. Hà Nội, 1996, tr. 127. Đây là cuốn sách về “con người và sự nghiệp” của Nguyễn Trọng Hợp, một kẻ thỏa hiệp với Pháp, được Pháp ca ngợi; đến lúc chết lại được Pháp tổ chức rất trọng thể, có lính hộ tống, đàn áp ([ĐNLT., tập 4, sđd., tr. 137]).
Bài 16
TẶNG TỪ THỦ TRƯƠNG CÚC VIÊN
PHÓ CHỨC
Phủ dĩ Từ danh hựu xử trung
Như hà khống ngự diệc vi xung
Liêm năng đề bảo khâm quân dụ
Kinh tế di trù xuất tướng công
Tằng cụ ngưu đao xưng vũ tể
Bất nan độc kiếm hóa văn ông
Tức kim giáp đạo hoan nghinh giả
Mạc thị đương niên ngộ đối phong.
TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm
16
TẶNG TRƯƠNG CÚC VIÊN
ĐI NHẬN CHỨC TRI PHỦ TỪ SƠN
Tên phủ là Từ lại ở trung
Làm sao chống giữ chốn vi xung
Liêm năng gìn giữ lời vua dạy
Kinh tế lo trù từ tướng công
Từng đủ dao trâu vưng võ tướng
Khó gì gươm ghé hóa văn ông
Như nay gặp gỡ lòng vui thú
Chẳng giống thuở nào trót nhận phong.
TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ
16
TẶNG TRƯƠNG CÚC VIÊN (1)
ĐI NHẬN CHỨC QUAN ĐẦU HUYỆN TỪ (2)
Phủ vốn [có] tên [là] Từ, [địa thế] xứ [ấy] lại ở trung
tâm [Bắc Bộ] (lại sống ngay thẳng) (3)
Làm sao cai quản cho dân theo luật pháp, [đồng thời]
cũng làm đường thông thương bốn hướng (hoặc: Sao
không xem việc phòng ngự,
khống chế [quân giặc] cũng như là việc xung trận)
Trong sạch, không tham ô [và] chăm việc, [quan] nêu
cao sự gìn giữ [đức tính đó], tuân lời dụ [của] vua
Việc lo nước giúp đời, [quan càng nên] trù liệu cả cho
mai hậu, [gắng] vượt hơn [cả] lẽ chí công
[của] tướng
[Bạn] từng đủ dao trâu [để] xưng là người đứng đầu [về
tài năng], [trong] quân đội
Khó gì gươm bê con (bò nhỏ) [để] trở thành
kẻ nổi tiếng [hệt lão thành] trong
giới [văn học] quan văn (4)
Như hiện nay, thôn xóm, tỉnh đạo [đều]
hoan nghênh bạn
Đừng như thế [nhé]! [Đừng xem] năm gánh vác [việc
công như thể] trót lỡ nhận phong chức.
(1) Trương Quang Đản (ĐNTL.CB., tập 32, sđd., tr. 142).
(2) Huyện Từ Sơn, thuộc tỉnh Bắc Ninh.
(3) Đây lại là câu chơi chữ địa danh: “Từ Sơn”, trong đó chữ “Từ” có nghĩa là người trên thương yêu người dưới, tình thương chung, cũng là tiếng để gọi người mẹ (TĐHV., sdđ., tập hạ, tr. 333). Chữ “Trung” này là ở giữa (trung tâm, miền Trung); ngay thẳng. Trương Quang Đản là người miền Trung (Quảng Ngãi), có thể ông cũng là người xử đoán công việc ngay thẳng, lại đang làm việc ở một phủ trung tâm Bắc Bộ, vùng đất của quan họ trữ tình, có ngọn núi biểu tượng cho người mẹ, tình yêu thương [ĐNNTC., sđd., tập 4, tr. 76 - 77: núi Phả Lại, Đại Lãm, không có núi Từ Sơn]. Ngọn núi ấy không có thực, chỉ ở trong tâm thức, khát vọng (hay là phần mộ?) chăng?
(4) Tác giả coi quan lại (vốn được xem là cao sang) cũng như người đồ tể (“đồ, điếu”, người mổ gia súc để cung cấp thịt, người sống bằng nghề câu cá, chài lưới, vốn bị xã hội cũ đánh giá là hạ tiện). Đồ tể và quan lại đều phục vụ dân, nước, có giá trị như nhau, xét trên quan niệm cống hiến có ích cho xã hội. Đây là cách nhìn nhận khác lạ so với đương thời. Khía cạnh khác: xem quan võ quan trọng hơn quan văn (hẳn vì thời chiến). Dẫu sao, cũng chỉ là cách nói cường điệu bằng lối khẩu khí, phóng đại trong sự thân tình.
16
TẶNG TRƯƠNG QUANG ĐẢN
ĐI NHẬN CHỨC
QUAN ĐẦU HUYỆN TỪ SƠN
Phủ vốn tên Từ, giữa xứ Hồng (1)
Làm sao chống giữ, bốn phương thông
Liêm năng nêu sáng, tuân lời dụ
Kinh tế trù xa, vượt lệnh công
Từng đủ đao trâu xưng võ tướng
Khó gì gươm nghé hóa văn ông
Như nay thôn, huyện mừng anh đến
Đừng giống năm kia trót nhận phong!
(bản biên soạn)
(1) Xin xem chú thích (3), bản dịch nghĩa bài thơ này.
Câu trên có thể dịch:
“Phủ vốn tên Từ, giữa đất Hồng”
hoặc:
“Phủ vốn tên Từ, tụ mấy đường”
Nhưng dịch như thế chỉ toát được mỗi một ý của tác giả.
Bài 17
TẶNG KIM TÂN CỰU LÊ, TRẦN,
NHỊ HUYỆN DOÃN
Kim châu hà trạch ngã châu nhân
Khứ dã Lê huynh tiếp dã Trần
Dân chính dĩ am công hựu thí
Quân cơ vị học tội duy quân
Cựu tân tương cáo liên đồng bệnh
Giao đại hà do nhạ dị văn
Xử thế mạc phi tranh giả ngộ
Hoạn đồ bình bí (pha) mỗi tương nhân.
TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm
17
TẶNG LÊ, TRẦN,
HAI QUAN HUYỆN CŨ, MỚI
CỦA HUYỆN KIM
Huyện Kim khéo chọn người cùng châu
Trước đó Lê huynh, Trần tiếp sau
Dân chính đã quen công lại thử
Quân cơ chưa học tội đều nhau
Cựu tân lời hỏi thương đồng bệnh
Giao hoán văn xem ngại khác câu?
Ở thế chẳng đua tranh mới gặp
Hoạn đồ ngay lệch có nhân sâu.
TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ
17
TẶNG LÊ, TRẦN (1),
HAI QUAN HUYỆN CŨ, MỚI
CỦA HUYỆN KIM (2)
Châu Kim sao [được] chọn người châu mình? (3)
Đã qua là anh Lê, tiếp đến là Trần
Việc dân chính vốn am hiểu, công lao [vẫn] lại xét
Chuyện quân cơ chưa học, đáng tội nhưng chia đều (4)
[Kẻ] cũ, [người] mới cùng chào (thăm hỏi) nhau, thương
nhau cùng nỗi bệnh
[Người] trao, [kẻ] đổi sao còn ngại khác biệt nguồn tin?
Ở đời, [chúng mình] đừng đều phạm lỗi lầm; tranh đua,
ấy là hòa hợp (5)
Con đường làm quan, bằng phẳng [hay] nghiêng lệch,
mỗi việc đều cùng [đối ứng (tương ứng) với]
nguyên nhân (6).
(1) Chưa rõ là ai.
(2) Kim Anh, thuộc tỉnh Bắc Ninh (ĐNNTC., sđd., tập 4, tr. 63).
(3) Có lẽ do luật hồi tị (tránh làm quan nơi nha sở có thầy dạy học của mình hay bà con ruột thịt làm quan, hoặc nơi quê hương bản quán có họ mạc lâu đời ở đó...). “Ngã” là “tôi”, cùng nghĩa với chữ “ta”, chữ “mình” trong tiếng Việt, có khi dùng để nói cho thân tình. Xem hai chú thích (1), (2) bản dịch thơ bài số 2.
(4) Chương trình, nội dung học tập của kẻ sĩ ngày xưa có hạn chế này: ít học về quân cơ, binh pháp (quân sự).
(5) Tranh đua nhưng có mục tiêu chung cao đẹp.
(6) “Xử thế / mạc phi // tranh giả ngộ”, xin hiểu thoát là, ứng xử với đời / đừng nói xấu người (đừng sai lầm) // [rằng:] tranh đua khác với hòa hợp, mà chính sự tranh đua lại là sự hòa hợp đích thực, đó là sự gặp gỡ nhau trong tư tưởng, trong công việc, đó là sự đãi ngộ nhau; tranh đua không phải là thù ghét, tiêu diệt nhau. Câu trên chỉ là mệnh đề ghép với lô-gích phủ định của phủ định.
17
TẶNG LÊ, TRẦN,
HAI QUAN HUYỆN CŨ, MỚI
CỦA HUYỆN KIM
Huyện Kim sao chọn người châu mình?
Trước đó Lê nay Trần đệ huynh
Dân chính vốn quen, công lại xét
Quân cơ chưa học, tội đồng tình!
Vừa chào, giao, nhận, thương cùng bệnh
Còn ngại, đổi, trao, ngờ khác tin?
Đừng lỗi, ở đời, tranh tức hợp
Nẻo quan nghiêng, phẳng,
quả – nhân sinh... (1)
(bản biên soạn)
(1) Một chút cảm nhận và lạm bình khi chuyển lại ngôn ngữ thơ:
Tranh đua, ấy là hòa hợp – mệnh đề khẳng định giản dị! Đó là nguyên lí tồn tại, là lẽ sống, vì mục tiêu: nhân bản (có tính nhân loại), tiến bộ, văn minh, hạnh phúc... Nhà thơ Nguyễn Văn Tường đã làm mới mẻ triết học biện chứng âm dương, lại kết hợp với luật nhân quả rất dân dã cổ đại (vốn được Đức Phật nâng lên thành cốt tủy của Phật học). Đây là một nét thơ rất trí tuệ (thơ triết lí) trong phong cách nghệ thuật trữ tình – chính trị của ông.
Hình như Nguyễn Văn Tường cố tìm một cách nói nước đôi, do sự dè dặt khi phát biểu một tư tưởng mới lạ đến thế, trong thời điểm bấy giờ? Nét chung nhất của thơ Nguyễn Văn Tường là tích cực, nhiệt tình, dấn thân vì nước, vì dân một cách không mệt mỏi, và vì cả triều đại nhà Nguyễn nữa, trước nạn thực dân Pháp và nạn phỉ Tàu... Tuy nhiên, tư tưởng trên chỉ gói gọn trong phạm vi ửng xử nội bộ, chưa bàn đến một dạng khác của đua tranh: mâu thuẫn đối kháng, chiến tranh xâm lược và chiến tranh chống xâm lược - đua tranh này, là sự-đua-tranh-phản-đua-tranh, là hủy diệt...
Hai câu kết cũng có thể dịch:
“Ở đời, chớ “chẳng đua là hợp”
Ngay, lệch nẻo quan, nhân – quả sinh”...
Dẫu với nghĩa nào đi nữa, cũng phải lưu ý đến luật nhân quả hiện thực.
Bài 18
DẠ VŨ TRÌNH THỐNG ĐỐC
HOÀNG ĐẠI NHÂN
Tương khứ tài li chỉ xích dinh
Tương khan dạ hạ vũ sơ đình
Thâm tâm tương chiếu ưng như thủy
Tanh (tinh) uế tương kì tẩy nhất thanh.
TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm
18
ĐÊM MƯA TRÌNH VỚI THỐNG ĐỐC
HOÀNG ĐẠI NHÂN
Mới đến rồi đi doanh trại gần
Cùng trông đêm hạ, giọt mưa ngừng
Soi sáng thâm tâm trong tựa nước
Dơ bẩn bao giờ rửa sạch tưng.
TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ
18
ĐÊM MƯA, BÀY TỎ VỚI THỐNG ĐỐC
HOÀNG ĐẠI NHÂN (1)
Cùng ra đi, mới rời doanh trại gần [đây]
Cùng nhìn trông mùa hè về đêm, cơn mưa bắt đầu
ngừng [rơi]
[Hai] tấm lòng [tận] sâu thẳm cùng soi chiếu cho nhau,
như thể [những giọt] nước soi chiếu cho nhau
(:tương ứng) [để cùng sáng]
[Bao] dơ bẩn, tanh tưởi cùng [một] thời (hoặc: cùng hẹn),
[quyết] một (2) tẩy sạch!
(1) Hoàng Tá Viêm (Hoàng Kế Viêm), (ĐNTL.CB., tập 32, sđd., tr. 94...).
(2) Thơ Thâm Tâm có câu: “Li khách, li khách, con đường nhỏ! Một giã gia đình, một dửng dưng....”. Chữ “một” (nhất) vốn bày tỏ sự quyết tâm, ở đây còn thể hiện sự đồng nhất:
“Tanh bẩn cùng thời, một sạch tưng”.
Một + (động từ).
18
ĐÊM MƯA BÀY TỎ VỚI THỐNG ĐỐC
HOÀNG TÁ VIÊM
Cùng bước, mới rời, trại khuất lưng
Hạ đêm cùng ngắm, mưa vừa ngừng
Lòng nhau, cùng sáng soi như nước
Tanh bẩn, hẹn cùng một sạch tưng!
(bản biên soạn)
Chùm thơ ba bài 19. 20. 21
HỌA NHẠC ÔNG KÍ PHỎNG TAM THỦ
NGUYÊN VẬN
19: BÀI A
Xứ xứ sầu văn đãi bô ngao
Ưu thâm nan tả chuyển sinh trào
Thừa lương thí hướng cao lâu vọng
Đố nhãn nhưng đa vị ngải cao (hao).
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
phiên âm
19. 20. 21
HỌA NGUYÊN VẦN BA BÀI THƠ
CỦA BỐ VỢ GỬI HỎI THĂM
19: BÀI A
Buồn nghe khắp nơi tiếng khóc chờ mớm cơm
Nỗi lo day dứt không thể tả bỗng trở thành buồn cười
Lúc dạo mát thử nhìn về phía lầu cao
Vẫn còn nhiều đôi mắt căm ghét nhìn mãi, chưa thuốc
thang!
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
dịch nghĩa
(và dịch thơ ở lời giới thiệu).
19. 20. 21
HỌA NGUYÊN VẦN BA BÀI THƠ
CỦA BỐ VỢ (1) GỬI HỎI THĂM
19: BÀI A
Nơi nơi, buồn rầu nghe tiếng khóc trẻ con (vừa đùa chơi
vừa khóc) (2) chờ được bú mớm (ăn)
Nỗi âu lo sâu [nặng] khó viết thành chữ (bày tỏ)
chuyển thành buồn cười
Dạo mát, thử hướng [lên] lầu cao [để] ngóng nhìn
[Những đôi] mắt căm ghét vẫn còn nhiều (nhiều như
cũ); chưa [có] hơi [sắc] thuốc ngải cứu bốc lên (3)
[để chữa căn bệnh xa hoa, phung phí ở nơi nhà
hàng, khách sạn ấy].
(1) Chưa rõ là ai.
(2) Ngao: chơi nhởi + kêu khóc.
(3) Ngải cao, theo ĐNNTC., sđd., tập 1, tr. 322: “Ngoài tên gọi là ngải cứu, ngải cao còn có tên là thủy đài, bệnh thảo, có công dụng làm giảm đau nhức, an thai, đặc biệt là ngải cứu trừ mọi thứ bệnh. Ngày đoan ngọ (mùng 5 tháng 5), người xưa hái cây ngải bện thành hình con hổ, treo trước cửa, có thể trừ khí độc”. Hẳn đó là một hình thức trong “Ngày trầm hương thơ ca”, xa xưa để tưởng niệm Khuất Nguyên. Ngải cao (ngải cứu) ở đây là một biểu trưng, chỉ chung về thuốc thang, sự cứu chữa các loại bệnh, mọi nỗi đời.
Chữ “cao” cũng có nghĩa là “hơi bốc lên”.
19. 20. 21
HỌA NGUYÊN VẦN BA BÀI THƠ
CỦA BỐ VỢ GỬI HỎI THĂM
19: BÀI A
Chờ cơm trẻ khóc, buồn nơi nơi
Khôn tỏ thương lo, hóa bật cười
Lầu rộng mắt đầy tia hận ghét
Dạo trông, đâu thuốc cứu niềm đời?
(bản biên soạn 19/1)
19: BÀI A
Khắp chốn tiếng vòi trẻ đói ăn
Trĩu lo, tim chật phải cười tràn
Dạo trông, thử hướng nhà hàng ngóng
Đấy mắt ganh nhiều, chưa thuốc thang!
(bản biên soạn 19/2)
Chùm thơ ba bài 19. 20. 21
HỌA NHẠC ÔNG KÍ PHỎNG TAM THỦ
NGUYÊN VẬN
20: BÀI B
Đô môn hồi thủ vọng môn đường
Tâm sự mang nhiên tỉnh tự cuồng
Hạp kiếm bất minh hồ hữu mã
Huyền ngư nan trí nhĩ vô hương
Đế ưu biên hoạn cầu trường sách
Thiên yếm binh hung hạnh tiểu khương
(khang)
Tá trợ vô năng tàm ẩm chí
Giới [cá?] mi dao ức chước xuân trường.
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
phiên âm
19. 20. 21
HỌA NGUYÊN VẦN BA BÀI THƠ
CỦA BỐ VỢ GỬI HỎI THĂM
20: BÀI B
Từ công đường ngó mong về nhà cũ
Tâm sự ngổn ngang tỉnh mà như điên
Gươm nằm trong vỏ, có con ngựa hồ không hí
Câu cá khó mà móc mồi không thơm
Vua lo nỗi lo biên thùy, tìm kiếm kế hay
Trời ghét chuyện chiến tranh mong được chút
yên ổn
Ăn uống sao cũng thấy thẹn thùng vì mình bất tài
Cau mày nhớ lại thời chuốc chén xuân vui vẻ đã xa.
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
dịch nghĩa
19. 20. 21
HỌA NGUYÊN VẬN
BA BÀI [THƠ] CỦA BỐ VỢ (1)
GỬI HỎI THĂM
20: BÀI B
[Ở] bản doanh tướng sĩ, ngoảnh đầu ngóng nhìn về nhà
cửa [ở quê hương]
Tâm sự ngổn ngang, tỉnh như điên cuồng!
Kiếm [trong] hộp không vang (2), bọn giặc man rợ (giặc
Cờ) có ngựa (3)
Cá [trên] dây khó đem đến tận nơi [sông, suối], [bởi
biết] mồi nhử không mùi thơm
Vua lo nạn biên cương, cầu mong kế sách tốt
Trời chán ngán sự dữ dội [của] binh đao, thích niềm an
vui nhỏ bé [cho mỗi người] (4)
Mượn đũa, [cảm thấy mình] không tài năng, [những]
thẹn thùng [cả] việc uống [rượu] nhiều
Phần giữa hai vạch lông mày giần giật
[hoặc: hai vạch lông mày thẳng ra (:chau mày)],
nhớ [thuở] xa xăm chuốc chén xuân (5).
(1) Chưa rõ là ai.
(2) Thời Chiến quốc, có bọn trộm đào mồ tìm của cải, chỉ thấy một thanh gươm reo vang, bay lên trời. Điển khác: Vua Sở truyền cho Mạc Gia đúc kiếm. Kiếm trong vỏ kêu lên rất bi thương. Quần thần bảo, kiếm hùng (trống) nhớ kiếm thư (mái) vì kiếm cũng có vợ chồng! (TĐTNTN., sđd., tr. 324).
(3) Dân tộc Hồ ở Trung Hoa, thường dùng một cách ước lệ trong văn học cổ. Xem chú thích, Thơ Đường, Nxb. Văn Học, 1987, tập I, tr. 115, 167 và tập II, tr. 39, câu thơ thứ hai ở tr. 43... Xem bài “Phò giá tòng kinh sư” của Trần Quang Khải (đời Trần).
(4) Tiểu khang (khương): sự khỏe mạnh, sự an vui nhỏ bé (vì của mỗi người); cũng có thể dịch: niềm an vui nhẹ nhàng.
(5) “Xuân trường” (trường, tràng = thương; [trường chỉ là chữ chỉ âm đọc]): cái chén bằng sừng [đựng rượu nồng như] mùa xuân. Ngày xưa người phương Tây dựng rượu ở túi da dê, người phương Đông đựng ở bong bóng lợn (?). Do đó, “xuân trường” là chén xuân (hoặc bầu xuân?).
19. 20. 21
HỌA NGUYÊN VẬN BA BÀI THƠ
CỦA BỐ VỢ HỎI THĂM
20: BÀI B
Ngó về nhà cũ từ công đường
Tâm sự ngổn ngang, tỉnh tựa cuồng!
Gươm vỏ không vang, “Cờ” có ngựa
Cá dây khó đặt (1), mồi không hương!
Vua lo nạn ải, cầu mưu tốt
Trời chán giặc khơi, đợi lẽ thường (2)
Mượn đũa (3), bất tài, thẹn uống lắm!
Cau mày xa nhớ bầu (4) xuân tuôn.
TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ
(1) Có một chữ “trí” là đặt, dựng, nhưng tác giả không sử dụng. Chữõ “trí” này là sự suy nghĩ đến cùng cực, là đem đến tận nơi (bờ sông, suối), không phải ung dung như người câu cá chờ thời! Chúng tôi tạm chuyển nghĩa bằng một chữ chưa đạt, chưa diễn tả hết tấm lòng nhiệt tình vì dân vì nước của tác giả. (Xem TĐHV., sđd., tập hạ, tr. 487).
(2) Nguyên văn: “tiểu khang” (xem bản dịch nghĩa bài thơ này). Tác giả lưu tâm, trân trọng niềm vui bé nhỏ của con người, hạnh phúc riêng tư của nhân dân bên cạnh niềm vui, hạnh phúc chung lớn lao của Đất nước, mặc dù thể hiện qua khát vọng của Trời. Một tấm lòng nhân đạo chu đáo!
(3) Xem chú thích (4), (3), “... Tặng lúc lên đường...” (bài số 7). Ở bài trước, tạm dịch là “mượn bút”. Ở bài này, xin để nguyên nghĩa cho hợp với ngữ cảnh: niềm ưu tư về giặc ngoại xâm làm đắng đót cả miếng ăn, chén uống. Một nỗi ưu tư, trăn trở thường trực, khôn nguôi!
“Một miếng ăn ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc
Không yên lòng khi ngắm một cành hoa!”
(Chế Lan Viên – “Người đi tìm hình của nước”: Nguyễn Ái Quốc).
(4) Đồ đựng rượu (vỏ bầu khô). Xin tạm dùng chữ “bầu” này.
Chùm thơ ba bài 19. 20. 21
HỌA NHẠC ÔNG KÍ PHỎNG TAM THỦ
NGUYÊN VẬN
21: BÀI C
Lạng Thái Cao Tuyên đạo lôï nan
Kỉ phiên túc tích kiû gian quan
Hung trung hữu giáp thùy ca Phạm
Tọa thượng vô Ni thục biệt Nhan
Miếu toán phương ân biên sự trọng
Tướng trù nhược định tặc tâm hàn
Kịch lân mạc tá tam thu trệ
Báo lược hà tằng triển nhất ban.
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
phiên âm
19. 20. 21
HỌA NGUYÊN VẦN BA BÀI THƠ
CỦA BỐ VỢ GỬI HỎI THĂM
21: BÀI C
Lạng, Thái, Cao, Tuyên đường khó đi
Mấy lần lặn lội qua mấy ải
Trong bụng có giáp binh, ai ca bài ca Phạm Lãi?
Không có đức Khổng, lấy ai chia tay Nhan Hồi?
Tính việc ở Triều mới lo rằng việc biên cương là trọng
Nếu tướng tính kế xong, giặc sẽ không dám lăm le
Khổ nỗi kẻ giúp kế trong màn, ba năm nay không có
Tài thao lược chưa từng thi triển ra được?
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
dịch nghĩa
19. 20. 21
HỌA NGUYÊN VẬN BA BÀI THƠ CỦA BỐ VỢ (1) GỬI HỎI THĂM
21: BÀI C
Thái [Nguyên], Lạng [Sơn], Cao [Bằng],
Tuyên [Quang], đường, nẻo khó [đi]
Mấy lần lặn lội [qua] mấy ải cam go
Trong bụng có áo giáp, ai ca [khúc hát về] Phạm (2)
Trên chỗ ngồi không có [Trọng] Ni (3), [lấy] ai biệt đãi
Nhan [Hồi] (4)
Việc tính [kế ở] Triều đình vừa mới hưng khởi, [cho
rằng] việc biên giới [là] nặng nề (quan trọng)!
Sự trù liệu [của] tướng nếu định [xong], lòng giặc sẽ sợ hãi
Đau xót, thương tiếc quá đỗi [cho] tả tướng (5)
(quan lớn bên cạnh vua) [tham mưu sau] màn
trướng [đã] ba mùa thu [như] cặn đáy nước
Mưu lược con báo (5) [nếu có], sao từng triển khai
[quyết] một [mực] rút quân về
(hoặc: nào đã từng thi thố một lần)?
(1) Chưa rõ là ai.
(2) Phạm Lãi giúp Việt vương diệt Ngô xong, về ở ẩn. Phạm Lãi từng hiến kế “thường phẩn” (nếm phân), nhẫn nhục với quân xâm lược (Ngô vương) và áp dụng chính sách mười năm quy tụ dân chúng, mười năm giáo huấn dân, (xem TĐTNTN., sđd., tr. 102). Ngoài khổ nhục kế, Phạm Lãi còn sử dụng kế mĩ nhân, dâng Tây Thi cho Ngô Phù Sai; Ngô vương say mê nhan sắc Tây Thi đến mức bỏ bê việc nước, việc quân. Cuối cùng Việt vương Câu Tiễn đánh diệt được nước Ngô (sđd., tr. 573).
Phạm Tăng (mưu sĩ của Hạng Vũ)?
(3) Trọng Ni: Khổng Khâu (Khổng Tử).
(4) Nhan Hồi: học trò của Khổng Tử.
(5) Nguyễn Tri Phương, Vũ Trọng Bình bị bó tay vì sự thao túng của Trần Tiễn Thành (thượng thư Bộ Binh). Trần Tiễn Thành vốn là người Minh hương (phù [Hán] Minh, bài [Mãn] Thanh), có lẽ phần nào cảm tình với bọn giặc Cờ (biến tướng của phong trào Thái bình thiên quốc, chủ trương phù Hán bài Mãn. Trần Tiễn Thành còn là kẻ chủ “hoà”, bị cuộc khởi nghĩa của Hồng Tập kết án tử hình (cùng với Phan Thanh Giản), (ĐNTL.CB., tập 30, tr. 154, 173, 286); đặc biệt từ năm 1882, y ngày càng “thân Pháp” và trở thành tay sai của Pháp. Theo cách nói của Ưng Trình, là: “... ngài Trần Tiễn Thành, tiến sĩ, phụ chánh An Nam, được giao nhiệm vụ thương lượng với nước Pháp và bị liên lụy do sự chăm lo cho quyền lợi của nước Pháp” (Những người bạn cố đô Huế [BAVH., 1919], bản dịch Đặng Như Tùng..., Nxb. Thuận Hóa - 1998, tập VI B, tr. 406). Do đó, ở thời điểm tiễu trừ bọn giặc Cờ này, Nguyễn Tri Phương, Vũ Trọng Bình (“Kịch liên mạc tá...”) đành thúc thủ, bởi vua Tự Đức lại rất sủng ái Trần Tiễn Thành... (“Báo lược hà tằng triển nhất ban?”). Xem thêm chú thích (5), bài số 6.
Tuy nhiên, ở một góc độ khác, có thể hiểu câu “báo lược hà tằng triển nhất ban?” nhằm ám chỉ Phùng Tử Tài, một vị tướng của nhà Thanh. Viên họ Phùng muốn rút quân, khi đang đảm trách nhiệm vụ tiễu trừ giặc Cờ (chúng chiếm đóng, xưng hùng xưng bá ở các tỉnh biên giới nước ta, chứ không phải “tị nạn”) [xem: ĐNTL.CB., tập 32, sđd., tr. 29 - 30, 30 - 31].
19. 20. 21
HỌA NGUYÊN VẦN BA BÀI THƠ
CỦA BỐ VỢ GỬI HỎI THĂM
21: BÀI C
Lạng, Thái, Cao, Tuyên nẻo khó đi
Bao lần lặn lội mấy biên nguy
Ai khen Phạm Lãi khi đầy súng!
Đâu trọng Nhan Hồi lúc vắng Ni?
Vừa phát kế vua, đồn ải trọng
Nếu xong sách tướng, lòng thù suy
Trí hùng (2), tiếc quá ba thu đọng (3)
Beo giỏi (4), sao quân quyết rút về?!
TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ
(1) Có thể dịch sát nghĩa (nhưng chưa đạt ý và chỉ đối chéo):
Lòng đầy binh giáp, ai ca Phạm?
Chiếu vắng Khổng Khâu, Nhan giã gì!
(2) Khi dùng từ “trí hùng”, người biên soạn nghĩ đến Nguyễn Tri Phương, Vũ Trọng Bình (Võ Trọng Bình), lúc còn là đại thần Viện Cơ mật, thượng thư Bộ Binh. Nguyên văn chỉ viết là “mạc tá” (người giúp kế trong màn trướng [:triều đình]).
(3) Nguyễn Tri Phương bị thúc thủ (xem lại chú thích (5) ở bản dịch nghĩa bài này). Nguyên văn chữ cuối câu này là “trệ” (ứ lại, không thông; đọng), mặt chữ Hán có khác với chữ “trể” (cặn đọng đáy nước).
(4) Trần Tiễn Thành? Phùng Tử Tài?
Xem tiếp:
http://tranxuanan.writer.2.googlepages.com/tho_nvt-vnvcnthvttuong_11.htm
Cũng có thể xem tại:
http://www.tranxuanan-writer-5.blogspot.com
http://www.tranxuanan-writer-6.blogspot.com
Trở về trang
danh mục tác phẩm -- muc lục:
http://tranxuanan.writer.googlepages.com/danhmtphamtxa_googlepcreator.htm
bài mới -- sách mới -- tin tức mới:
http://tranxuanan.writer.googlepages.com/baimoi-sachmoi-2