Phần hai
NHỮNG TÌNH THƠ THUỞ ĐÓ
THƯA NGỎ VỀ MỘT MÙA HƯƠNG THƠ CŨ
tuổi mười bảy
con ốc mượn hồn
làm thơ cho người lớn
họ bạc đầu
vì trắc trở yêu nhau
và yêu nhau lúc trót bạc đầu!
bao câu chữ bụi thời gian vùi cũ
giấy trắng úa vàng, mực biếc nguyên màu!
chưa nửa cuối tuổi bốn mươi, ngoảnh lại
lốc xoáy niềm cổ xưa – vực xoáy trời sâu
tấm lòng và chút tình
riêng một giọng thơ, khẽ hát?
ý thơ và tứ thơ, loé sáng trên nhàm nhạt?
có lúc nào cũ trơ?
thơ Nôm cổ! Dịch lại hồn Nguyễn Trãi
bằng chất trong veo ngôn từ Việt bây giờ
thay những chữ chết rồi, Người sống lại
năm trăm năm, nguyên nỗi thật niềm mơ
sắc đỏ trái tim xưa sau mới mãi?
con ốc mượn hồn tuổi hoài mười bảy
vẫn nỗi đời xoáy lốc không ngờ?
dẫu bụi thời gian cuộn xoáy.
THÁNG NGÀY
ngân nga nguyệt rụng dốc dài
tôi già nua với tháng ngày tương tư
đường đi gió lốc bụi mù
bụi chiêm bao toả ra từ đắm say
chim bay tự trái tim này
lê thê mấy dặm đường mây tìm người
vàng thu vàng cả đời tôi
hững hờ, em chải tóc soi trăng tròn
vi vu, tiếng sáo ngợp hồn
đêm em rồi sẽ chập chờn xót cay
ngân nga nguyệt rụng vàng bay
em già nua với tháng ngày kiêu sa!
ăn năn, rượu ngấm la đà
khẩn cầu em, em mãi là trăng xưa.
1973.
MƯA CAO NGUYÊN
chiều hôm nay trời mưa thênh thang
em mang áo ấm và khăn quàng
cài nghiêng vành nguyệt trên rừng tóc
với đoá nhài hương thoảng rất ngoan
chiều hôm nay trời mưa mênh mông
em dạo phố và má em hồng
cơ hồ gió núi về trêu áo
anh ngấm niềm cách quãng như sông
chiều hôm nay cao nguyên mưa phùn
mưa ngàn xa mưa xuống tay run
anh yêu mưa nhưng lo gió rét
anh yêu em nhưng sợ rồi buồn
chiều hôm nay trời mưa mang mang
trong nhà thuê nhìn em, mơ màng
đau hẫng lòng, thương mình gốc ruộng
bên em, thêm quê kệch tồi tàn
chiều hôm nay cao nguyên tím mưa
hàng thông xanh vi vút hơi mờ
anh co ro trong làn áo mỏng
nhả khói thuốc, hỏi thầm em đi xa chưa?
1973.
NGHE KHÔNG
NGƯỜI TÌNH NHỎ
BÊN KIA HẢI VÂN,
ĐÃ XA
xanh chăng vườn cỏ bên tê
chiều em xoã tóc thương về ban mai
bên ni, mùa sáng thu phai
mất nhau gió thoảng u hoài rưng rưng
giờ vàng úa lạnh vô cùng
mai sau đời đổi không chừng xanh non
vườn ơi sương đọng trắng hồn
nhớ đôi mắt trót tím hơn sợi dài
qua cầu nắng xế, nghiêng vai
chân lê chầm chậm cho ngày chậm theo
bên tê, sợ phố thành đèo
bờ tương lai hỡi còn heo hút đời?
Huế – Đà Nẵng,
1973.
SAO TÍM
xa xa xóm nhỏ mờ sương
trời cao, nơi có nỗi buồn riêng tôi
làm thơ thả suối lưng đồi
cô em thôn nữ mỉm cười, sao bay
sao mơ màng giữa ngàn mây
chợt mưa rơi xuống lạnh dày nhân gian
mưa, mưa, tôi rụng bàng hoàng
ước đời vẫn rất thiên đàng là em.
1973.
THU THÀNH NỘI
đầu thu xoã nắng ngang vai
trang nghiêm lối cỏ dấu hài em qua
bay bay từng giọt sương ngà
đêm mơ tôi khóc bài ca sầu người
bướm vàng hay lá vàng rơi
em đi nhẹ nhé, hồn tôi mơ màng
mênh mông hương thoảng mang mang
bên thành quách cổ nắng vàng xa xưa
thu sang em tuổi giao mùa
lòng tôi đã lạnh cơn mưa chưa về.
1973.
MƯA THU
mây mùa thu qua nhà anh
nằm nghe mưa gõ cầm canh xa người
mái nào chim gọi tàn hơi
rụng trên anh những tiếng rời, nát tan
mưa mùa thu đẫm lá vàng
em đi để lại nỗi tàn tạ anh
mưa rơi nhanh mưa rơi nhanh
mưa rơi nhanh rơi muôn cành, rưng rưng
gió vi vút thổi chập chùng
thổi rưng rức nỗi vô cùng, xót xa
anh nằm tê lạnh tha ma
mưa mùa thu mục dần dà thân anh.
1973.
TÌNH MƯA
xin thoáng mưa về trên lối xưa
cho vai thục nữ buốt sầu mơ
và tôi ngong ngóng ai tan học
nhớ nhau se lạnh mùa tương tư
nghe chăng, chân nai khua rừng mây
mắt xưa tôi thả mờ sương bay
chiêm bao bướm trắng cài lên tóc
guốc lá vàng thu em đến “ai”?
tôi cũng tìm “ai” trong xóm em
mưa chiều ơi, ướt ngọn cỏ hiền
nghe như gió lật hàng khuy áo
áo mỏng mà trời rét vô biên
mưa xưa, mưa bốn mùa ngọt cay
đường thênh thang và buồn thơ ngây
hai năm, vạn cổ, đôi tay trắng
mộng du, tôi ngủ suốt đêm ngày *.
1973.
* Một cách nói tu từ: Sống chìm trong sách vở và thế giới tưởng tượng của văn chương hư cấu (say mê đọc sách, sáng tác và viết cảm nhận).
LÁ VÀ SÔNG
năm xưa bên phố ban trưa
tóc em bay mượt, sầu đưa tôi về
lá vàng gối cỏ nằm nghe
tôi vàng úa ngó mây che bóng đèo
níu bờ mặc bão xoáy vèo
nhìn sông sóng giạt cụm bèo vui, quên
ba năm, lòng lạnh vô biên
ngoảnh ra, mây chắn trắng triền Hải Vân.
1973.
THU NGOAN
mùa thu qua vườn cây
lá vàng im nghe bước
sương lam chiều dang tay
nhặt giùm em chiếc lược
em mỉm cười khoe tóc
chim trời bay khen xinh
bướm tung chùm hương phấn
tay làm duyên che nhanh
mùa thu nón mây vàng
nghiêng bờ vai rất ngoan
đôi chim xin ghé hót
em chỉ đường lên trăng
vạt áo dài ướp gió
cho nắng nhuộm ngời thêm
cành không quên goá bụa
vui mừng thay áo đen
mùa thu mắt nai hiền
suối tỏ tình trông lên
mơ hồ em thấy nhớ
một người tình không tên
vân vê vàng lá cỏ
đâu tấm tình thênh thang
mơ hồ em thấy nhớ
nghe chiều đi mênh mang.
1973.
THƠ XA NGƯỜI
năm này tháng sáu quên mưa
đường đi bụi đỏ nắng lùa mắt tôi
về nơi xứ lạ thương người
đồi thông hắt nắng rã rời vàng bay
tình ngây thơ lá ngủ ngày
ai bay bay áo chân mây chiều chiều
đêm đêm sương sáng cô liêu
ướt vai tôi cánh sáo diều thê lương
tôi nghe lời cỏ đưa đường
lang thang vào núi ra trường lơ ngơ
khuya cầm bút lá sầu mơ
nghiêng tờ ảo mộng làm thơ xa người.
1973.
CHUYẾN TÀU MÙA THU
tàu đi nát dạ non ngàn
chim ngơ ngác gọi lá vàng chào thu
gió trườn vách đá vi vu
rơi dăm giọt lệ cây ru thều thào
sương đồi cao cuộn đồi cao
chim non cắn lưỡi bổ nhào động hoang
suối trôi ra biển mơ màng
vờ quên xác chết vầng trăng bập bềnh
song song đường sắt chênh vênh
tàu e hụt bước bồng bềnh trong sương.
1973.
PHƯỢNG MÙA THU ĐẠI NỘI
nắng hạ phai màu trên áo thu
cô em vào nội chơi sương mù
có nghe nỗi buốt cành phượng lửa
rũ tàn mới lạnh gió tương tư!
tình ta trót già, tim bạc nhăn
mắt mòn oan uổng, chết bao lần
chiều nay vuốt mặt bên dòng tóc
bỗng thấy mê đời muôn dối gian
ô kìa! Chim nhỏ chuyền trên cành
biếc dấu chân in ngời rêu xanh
chữ yêu chữ nhớ – thơ ta đó
cô em chớp mắt cười ngoan lành
ta mơ từ sương ta bước ra
cầm tay cô em tròn trắng ngà
ta thương ta khóc hồn nhiên quá
thêu nhoà giọt lệ áo thơm hoa
hồn ta bây giờ hay sương đây
sương dâng sương ngát sương toả dày
cô em kì ảo mơ hồ lắm
xin bủa vây tình, sợ gió bay
ô kìa! Bươm bướm phất phơ quanh
ngoắt đôi cánh trắng, ngày đừng nhanh
nhưng xua tất cả và tất cả
còn ta, cô em và nội thành
nắng hạ đời ta phai sang thu
cô em vào nội đùa sương mù
nghe chăng phượng lửa ăn năn hát
bạc đầu, mới gặp em!
Giá như …
1973.
Phần phụ lục
NHỮNG KỈ NIỆM VĂN NGHỆ
những kỉ niệm văn nghệ
TRẦN XUÂN AN
& HÁT VỚI ĐỜI ƠI THƯƠNG MẾN
Bốn mươi tuổi, gốc Quảng Trị nhưng sinh tại Huế.
Tập thơ đầu tay của Trần Xuân An xuất hiện khá trễ, khi đã ngoài ba mươi. Nhưng anh có sức sáng tạo thật phong phú. Trong vòng 5 năm qua, Trần Xuân An đã ấn hành 6 tập thơ. Tập thơ đầu Nắng và mưa (Hội VHNT. Quảng Trị, 1991) đã được nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường giới thiệu khá trang trọng. Tập thơ mới nhất của Trần Xuân An, Hát với đời ơi thương mến (Nxb. Trẻ, 7.96) gồm 53 bài thơ với nhịp thơ khá mới.
Từ Nắng và mưa đến Hát với đời ơi thương mến, Trần Xuân An đã đi một bước khá dài.
PHẠM CHU SA
(Báo Thanh niên Chủ nhật,
số 136 [924], 25.8.1996).
NHƯ MỘT KHÚC HÁT VỚI ĐỜI
Trong tập thơ thứ hai, dù đã trải nghiệm mình qua những “lạnh buốt sương mù”, những “không bến không bờ” của cuộc hành trình chạm mặt với hư vô, Trần Xuân An vẫn giữ được tấm lòng
nắng mưa không héo nụ cười
cúi xin lưu lạc trọn đời nhớ quê.
Có lẽ đó là điều may mắn của anh: phước cho những ai có một quê nhà để mà sống với, sống cùng, dù đó là quê hương tâm tưởng của những “tháng ngày xa rất mộng du”, như lời tự thú trong Lặng lẽ ở phố, tập thơ thứ tư của anh.
Đấy là điểm ra đi và đích về, bởi Trần Xuân An đã tự Hát chiêu hồn mình, đã nhận mình là Kẻ bị ném vào bão, nhưng cuối cùng, anh khẳng định, khúc ca của nhà thơ là Hát với đời ơi thương mến (Nxb. Trẻ, 1996). Sự trở về ấy đã xuất hiện như một sự tự vượt thắng trong quá trình loại bỏ ra khỏi bản thân, mỗi ngày một ít, cái chất nô lệ [có tính phổ quát] của con-người-bé-nhỏ [nói chung, trên cõi đời], như cách nói của A. Tsékhov. Như thế, quê hương của miền đất nắng khô và gió giòn Quảng Trị của anh đã trở thành những quê hương. Đến đây, con-người-bé-nhỏ đã thoát ra khỏi những thúc phược [thúc phọc: trói buộc] để đạt đến cái nghĩa NGƯỜI, ở một bình diện trí tuệ hơn, và do đó, cũng SỐNG hơn (bởi luôn luôn trong dòng chày của cuộc tồn sinh, có biết bao kẻ sống-đó-mà-đã-chết-rồi).
Tôi không muốn nói thêm về thấp thoáng những suy niệm siêu hình mà Trần Xuân An dường như muốn tìm kiếm, lí giải trong tập thơ thứ sáu này của anh. Chỉ xin
chúc anh mãi mãi sống với thơ trong mối tình
trôi trôi biêng biếc ngọt ngào
em nơi nơi, man mác, xao xuyến và…
Và đó là hạnh phúc của những người làm thơ chân chính. Như một nỗi buồn trong sáng.
NGUYỄN ĐÔNG NHẬT
(Báo Doanh Nghiệp,
số 21.8 – 27.8.1996).
HÁT VỚI ĐỜI ƠI THƯƠNG MẾN
Trần Xuân An làm thơ và thơ Trần Xuân An khởi đầu là những giọt nước trong veo chắt chiu từ ruột đất quê nhà. Lớn lên anh cùng với bạn bè cuốn theo cuộc lữ hành số phận để đến lúc ngoảnh lại, nỗi hồi cố cồn cào, dồn sâu thương mến ngọt ngào thấm đẫm tình người trong thơ anh.
“Hát với đời ơi thương mến”, tập thơ thứ 6 của Trần Xuân An, đã thoát ra khỏi giãi bày buồn vui kiếp người vốn không dễ suôn sẻ và không gặp nỗi đau nào.
Cuộc đời vô thường, mà nghiệm chứng được điều đó thì việc gì tự làm khổ mình; và hiển nhiên, khát vọng vươn tới chóng mặt lí giải sự hiện hữu mỗi cá-thể-con-người trong dòng sống cuộn chảy. Trong bi kịch có lạc quan, dù sao đời vẫn đáng yêu, bởi nhựa đời không ngừng lưu chuyển cho cây đời đâm chồi nẩy lộc, đơm hoa kết trái và trở lại gieo mầm sống. Có lẽ vì thế mà từ trầm tư mặc tưởng “Lặng lẽ ở phố” (1) đến những phút “Tôi vẫn ở trên đường” (2) và bây giờ bỗng cất tiếng “Hát với đời ơi thương mến” (3) chăng?
Lần đọc những bài thơ, theo dõi những chạm khắc ngôn ngữ của An trên trang giấy, ta bắt gặp không ít những hoài niệm và suy tưởng về một thời và muôn thuở. Với anh, cuộc sống mang gương mặt tình yêu, nếu tìm tới một lẽ sống tích cực, đồng thời với nó là không chấp nhận sự dụ dẫn ma mị trong “thú đau thương” không ích gì hoặc giả tạo. Anh “nhìn thẳng” đồng nghĩa với nói thẳng mà thật khẽ thật dễ thương:
đánh thức dậy đánh thức dậy đi em
và gọi đúng tên khát vọng tuổi học trò
hãy thôi gương mặt muộn phiền hờ hững
ném vỡ cái vô hồn bằng sáp dưới hừng đông
(Nhìn thẳng)
Trần Xuân An tâm niệm “không thể chạy trốn hư vô thì phải vượt thắng”. Điều dó không loại trừ vai trò mỗi chủ thể sáng tạo. Người làm thơ băn khoăn nhưng ở đấy đã có lời giải:
lẽ nào thơ là trò đùa ma quỷ
dắt nhau hoàn lương giữa cõi đời chung?
(Trải nghiệm)
Ở cái tuổi “tứ thập bất hoặc”, cùng yêu tin và thuỷ chung với thơ từ hơn 20 năm nay, anh đã chín nhiều trong cách cảm, cách nghĩ. Dù đi xa nhưng lòng vẫn luôn đi về nơi chôn nhau cắt rốn. Đấy là lúc tình cảm câu thúc để có được những câu thơ dung dị, thật lòng mà thấm thía, cảm động:
nơi cho giọng nói chưa pha phách
chốn yêu thưong, về bỗng khóc ròng
(Tặng một người)
Rồi ra, dòng sông cuộc đời không ngừøng chảy. Trần Xuân An như tôi biết, anh đi nhiều (đã khép lại một thời ốc đảo, nằm đọc sách và chiêm nghiệm). Cái sự đi của con người ta cũng có 1.001 lí do, mục đích. An thì muốn làm “hành giả của tình yêu” và nhờ thế, tâm hồn thăng hoa bất ngờ và đầy thú vị:
giữa đồng bằng của hồn anh
đột ngột em, vút cao xanh núi tình
(Với những hành giả của tình yêu)
Bằng tình yêu, thi sĩ tin vào khả năng hoá hiện mầu nhiệm của niềm hi vọng:
hát tin đáy rác bùn nhơ
mầm sen sẽ ngát câu hò, hương ngân
(Hát lên với mỗi đời thường toả sáng)
Vâng, “còn da lông mọc, còn chồi nẩy cây” (ca dao). Từ lòng đời anh hát, từ bấy đến giờ.
Không phải ngẫu nhiên, với sự dồn nén, đã đến lúc anh cho ra đời liên tục 6 tập thơ và dự định một trường ca dài hơi. Càng không phải là chuyện số lượng mà còn là vấn đề chất lượng. Điều đó đáng để chúng ta quan tâm và suy nghĩ về bút lực của cây thơ dồi dào sức sáng tạo.
1,2,3: tên các tập thơ của Trần Xuân An.
VÕ VĂN LUYẾN
(Báo Quảng Trị,
số ngày 13.5.1997).
QUÊ NHÀ YÊU DẤU
Trường ca, Nxb. Văn Nghệ TP. HCM., 1998.
Thực ra, đây là 26 khúc thơ riêng lẻ mà Trần Xuân An xâu chuỗi để thành một trường ca về quê nhà yêu dấu của mình với bóng dáng thân yêu của những người cha, những người mẹ, những người em, của bao người anh đã gặp trên bước đường phiêu du đầy hoài niệm. Ở đó, mỗi con người đều rạng rỡ một nụ cười hiền thơm thảo, biết giấu nỗi đau riêng của mình để tìm về quê nhà cơ cực, lầm than, về với miền gió Lào, cát trắng:
ca dao phương Nam ru hời giọng Trung
mẹ ru em thuở xa xăm bé bỏng
ngày xưa ngày xửa
mù sương vợi vời
em lại ru con theo nhịp đưa nôi …
Viết về người mẹ, Trần Xuân An có những câu thơ lạ lùng buốt nhói:
cơn mưa rào tháng hạ
bừng nắng nung và gió bỏng
con trơ vơ khóc mẹ
để thắp được nén nhang
con phải đào tay xuống cát ướt
lửa bùng lên cháy hết nửa rồi
như đời người cơ cực
Trần Xuân An làm thơ có nghề, biết tiết chế trong từng câu, từng chữ, và với sự liên tưởng phong phú, với cảm xúc chân thành của mình, anh đã chạm được mối giao hoà cùng bạn đọc:
tạ ơn quê nhà còn mảnh đất để chôn …
TRẦN NHẬT THU
(Tuần báo Văn Nghệ TP. HCM.,
số 37 – 98, 15 – 21.10.1998).
Nhà thơ – nhà giáo
TRẦN XUÂN AN
LÊ HOÀNG ANH
phỏng vấn
1. Xin anh cho biết, thơ “trẻ” bây giờ có gì mới?
- Thơ của những nhà thơ trẻ, hai mươi đến ba mươi tuổi, mới và lạ hẳn so với thơ của lớp nhà thơ trước đó: Mới lạ về đối tượng quan tâm, cảm xúc thẩm mĩ, ngôn từ, kết cấu và nhạc điệu. Với mối quan tâm chung về số phận, tâm hồn và tâm linh, trong một bối cảnh đổi mới, họ vẫn có cách cảm nghĩ và cách nói khác với các thế hệ khác hiện sống và làm việc với họ. Nhưng dẫu sao vẫn không thể có một đột biến như Thơ Mới được. Mọi nguồn thơ Đông và Tây đều gặp nhau cả rồi trong suốt thế kỉ này. Cái mà thơ trẻ có thể nhắm tới là bề sâu hơn là bề ngoài, dẫu bề ngoài của thơ cũng quan trọng. Nhưng còn phải chờ. Hiện nay chưa thấy. Họ chỉ chú ý đến bề ngoài của thi pháp.
2. Riêng anh có gì thay đổi trong thơ?
- Viết, phải mỗi ngày mỗi mới.Tôi cũng được một số nhà thơ quen biết xếp vào loại “chịu khó” cách tân. Nhưng dù cách tân cách gì đi nữa cũng không thể liều lĩnh vô căn cứ, thiếu cơ sở lí luận và thực tiễn sáng tác. Tôi thường xuyên sáng tác trong trăn trở, vật vã với chữ nghĩa, hình ảnh và nhạc điệu, kết cấu và tứ thơ. Thơ phải thể hiện chất trí tuệ – cảm xúc đến mức mình có thể đạt được với nỗ lực không nguôi. Thơ không thể trống rỗng, chỉ chú tâm lập dị cho mới, lạ mà không đẹp. Đấy chỉ là tự định hướng cho bản thân. Vấn đề là tác phẩm đã in chứ không phải là hoài bão sáng tạo.
3. Anh đánh giá gì về thơ tình yêu trước sự “lạm phát” thơ tình hiện nay?
- Tình yêu nam nữ là vấn đề lớn bên cạnh những vấn đề lớn khác. Trong văn học thế giới và ở nước ta, có nhiều tác phẩm thể hiện những vấn đề rất lớn của con người và của các dân tộc theo từng thời đại thông qua tình yêu đôi lứa. Theo tôi nghĩ, vấn đề là các nhà thơ làm thơ tình có tránh né các vấn đề xã hội khác hay không. Ai cũng muốn có một nền thơ vững chắc. Vâng, rất cần có nhiều thơ chan chứa tình cảm và trí tuệ công dân bên cạnh nhiều tác phẩm thơ viết về nhiều đề tài khác, trong đó có thơ tình yêu nam nữ.
4. Theo anh nghĩ, giữa thơ và văn, cái nào khó hơn?
- Cái khó của văn, của thơ nói chung về loại và nói riêng về thể, là không giống nhau. Sự khó nhọc, xét về cường độ lao động và thời lượng lao động để hình thành mỗi đơn vị tác phẩm hoàn chỉnh, thì có thể so sánh được. Làm tiểu thuyết thơ cực nhọc hơn viết tiểu thuyết văn xuôi , nếu có độ dày bề rộng như nhau. Thơ cần lao động trên từng chữ, từng vần một. Thơ trữ tình, có khi chỉ hai câu (bản thân tôi có những bài, mỗi bài chỉ vỏn vẹn tám âm tiết – tám chữ, ngắt làm bốn dòng), tưởng buột miệng là thành, cũng phải vất vả ghê gớm. Tôi nghĩ đến sức chứa, độ nén của các linh kiện điện tử hiện nay. Vấn đề là ở đó. Mỗi bài thơ lại là một chỉnh thể đơn nhất. Vả lại, ở đây không phải là sự khó làm hay khó nhọc mà là ở sự khó thành công. Với văn, thành công cũng khó như thành công về thơ.
5. Vậy anh nghĩ gì về sự phát triển “ồ ạt” của thơ hiện nay?
- Sau sự “ồ ạt” như một tất nhiên, sẽ đi đến trạng thái trầm tĩnh hơn và chắc chắn sẽ có chất lượng hơn. Không có gì hư vô, vì ngay cả thể nghiệm cách tân hoặc phục cổ, dẫu thất bại thì vẫn là thất bại có ích. Phát triển rầm rộ nhưng hướng thiện thì có chi đáng ngại.
6. Theo anh thơ cách tân của một số người có gì đáng chú ý?
- Đổi mới thi pháp là mối bận tâm chung. Có một số người đã hình thành được giọng thơ riêng, nhưng do những nhà thơ ấy bảng lảng, mơ hồ, bàng bạc và có lẽ hơi rối rắm như tơ trời trong thơ họ, nên đọc chỉ cảm chứ chẳng nhận được gì nhiều. Có một số người cố tình tạo nên sự trúc trắc trục trặc trong nhịp điệu và thể hiện một cái nhìn mới về các sự vật vốn khó nên thơ. Cái nhìn ấy rất quý. Sự trúc trắc cần thiết cũng phải là một dạng hài thanh chăng?
7. Vậy theo anh, để có một bài thơ hay cần có những điều kiện gì?
- Để có thơ hay, phải hết mình, hết mình học, hết mình sống, hết mình viết. Tất nhiên cũng phải có năng khiếu, và nhờ hết mình, trở thành tài năng. Để có một bài thơ hay, hiểu như đỉnh cao của một đời thơ, ngoài những nỗ lực hết mình, chút năng khiếu tiền đề, cũng còn cần không khí thoáng đãng của xã hội.
8. Hướng tới tương lai, anh nghĩ gì về thơ?
- Mỗi nhà thơ phải tư nỗ lực là điều không cần phải nói. Quan trọng là nhu cầu và thái độ của xã hội đối với thơ.
Thơ là tinh túy của tiếng mẹ đẻ. Dù trong tương lai có học quốc tế ngữ trên toàn thế giới (không phải ngôn ngữ của bất kì nước nào, dân tộc nào) thì cũng phải học tiếng mẹ đẻ. Thơ còn là một dạng nhu cầu đầu tiên, sâu thẳm và bền vững của loài người từ khi có ngôn ngữ.
Ước chi nghệ thuật ngâm thơ và đọc diễn cảm thơ cần được phát huy hơn nữa với các giáo cụ trực quan (băng, đĩa) để nhu cầu thơ cần bằng với nhu cầu nhạc trong xã hội (ở các quán cà phê, ở các tụ điểm văn nghệ).
Chẳng lẽ nghệ sĩ ngôn từ đang viết chỉ cho mình và chỉ cho những người cùng nghiệp?
14.5.1997.
(trích trong cuốn
Trò chuyện với văn nghệ sĩ
của nhà thơ LÊ HOÀNG ANH,
Nxb. Thanh Niên, 2000, tr. 19 - 22).
THƠ NHỮNG MÙA HƯƠNG
tập thơ thứ chín
TRẦN XUÂN AN
Mục lục
- Trang đề tặng những trái tim cõi người, những nàng hương hình như không có thật. 6.
- Phần một: Thơ dâng Tình Yêu. Và yêu em như đất trời. 7.
- Thơ ngỏ. 8.
1. Hương, người mẫu của tranh bằng chữ. 9.
2. Cùng Quảng Trị dạo chơi ba mươi sáu phố phường. 11.
3. Một quãng Thái Hà. 13.
4. Chén trăng ngọt. 15.
5. Tam Kỳ, 1996. 17.
6. Mưa chiều, hẹn với mùi hương lan đất. 18.
7. Lời cây phố thị. 20.
8. Với cô gái hoa chưng rượu cất. 21.
9. Cát trắng đất nâu. 22.
10. Bốn nhánh hoa sinh nhật. 24.
11. Thoáng chiều hôm đường Thanh Niên. 27.
12. Tam Kỳ, đường đê vàng hoa sưa. 30.
13. Xin sợ hãi niềm cay chua. 32.
14. Buồn cười với những sợi tóc râu màu khói. 34.
15. Viết sau tấm ảnh Hồ Gươm. 36.
16. Tản bộ qua cầu Chương Dương. 38.
17. & 18. Những làn hương. 40.
17. Hương và một thời. 40.
18. Hương xanh. 40.
19. Phượng của hai người. 41.
20. Đến với những ngày tháng trong lành. 42.
21. Chiều ghé thăm Bài thơ Đông Hà. 43.
22. Mẹ là cõi đời. 45.
23. Hương phố cũ. 47.
24. Rất Tết, mùa trẻ thơ. 48.
25. Có phải kẻ làm thơ tình ngớ ngẩn. 50.
- Phần hai: Những tình thơ thuở đó. 51.
- Thưa ngỏ về một mùa hương thơ cũ. 52.
26. Tháng ngày. 53.
27. Mưa cao nguyên. 54.
28. Nghe không, người tình nhỏ bên kia Hải Vân đã xa. 56.
29. Sao tím. 57.
30. Thu Thành Nội. 58.
31. Mưa thu. 59.
32. Tình mưa. 60.
33. Lá và sông. 61.
34. Thu ngoan. 62.
35. Thơ xa người. 64.
36. Chuyến tàu mùa thu. 65.
37. Phượng mùa thu Đại Nội. 66.
- Phụ lục: Những kỉ niệm văn nghệ. 68.
1. Phạm Chu Sa (báo Thanh Niên chủ nhật, số ngày 25.08.1996). 69.
2. Nguyễn Đông Nhật (báo Doanh Nghiệp, số ngày 21. 08. 1996). 69.
3. Võ Văn Luyến (báo Quảng Trị, số ngày 13.05. 1997). 71.
4. Trần Nhật Thu (tuần báo Văn Nghệ TP. HCM., số 37 – 98, 15 – 21.10.1998). 74.
5. Trò chuyện với nhà thơ Lê Hoàng Anh (phỏng vấn và trả lời, trích trong cuốn Trò chuyện với văn nghệ sĩ, Nxb. TN., 2000). 75.
- Mục lục. 80.
- Ba bài thơ ngoài tập. 83.
- Danh mục sách của tác giả. 92.
Ba bài thơ ngoài tập:
kỉ niệm Hà Nội
VỚI NHỮNG NGƯỜI BẠN
BÔNG ĐÙA BÊN HỒ HOÀN KIẾM
hồ toả khói mờ, trời xuống mây mơ
ngàn cánh nắng mai đậu trên Thê Húc 1
em là trăng, nên ngày không còn thực
rất hoa đào, thắp ấm một hừng đông
ngỡ em quan họ tung lụa cầu vồng
hay từ tay áo nâu sồng màu đất
lược cài tuổi thơ tươi non em cất
tự tiền kiếp nào, hoá Thê Húc xinh
em, con ngỗng trời huyền sử lung linh
bỗng bay bên vai, trắng ngần Hà Nội
tôi mặc áo the, đội khăn, tóc bối
guốc mộc nước qua, ngắm truyền thuyết xưa
lẫy nỏ Rùa Vàng tên bắn như mưa
triệu tia mặt trời gãy trong làn nước …
khi chụp ảnh với Thánh Trần, mắt ngước 2
thấy gươm thần thành Tháp Bút, ngút trời
thi sĩ bông lơn đồng bóng giữa đời
nhặt lá bồ đề, ép tim vào sách
nửa thành Đài Nghiên – cái tâm hoá thạch
nửa hoá rùa vàng – chút tình thành kinh
yêu các em như trời đất, thất tình
đáng đời chăng, kẻ chỉ mê tín sắc
ơi ni cô đẹp nét không thơ Phật
ơi trăng ơi đào, ngỗng trời yêu ơi …
Hà Nội, 02.03.1997
Tp. HCM., 12.03.1997.
1. Thê Húc: nắng ban mai đậu lại.
2. Đền thờ Trần Hưng Đạo (Đức Thánh Trần) vốn được xây dựng ngay trong chùa Ngọc Sơn.
NGẪM KHỔ ĐẾ 1,
TẢN MẠN NIỀM VIỄN TƯỞNG
QUANH CHÙA MỘT CỘT
ni cô cùng anh rong chơi
thăm chùa xưa – đoá sen đời sắc nâu
vuông hồ gói cả trời sâu
hay khăn lụa biếc óng màu chép kinh?
đọc từng hoa súng, giật mình
chùa này, bóng ảo của xinh xắn này?
nâu sồng ơi, nghìn xưa đây
khói hương là thoáng sương bay hương đồng
cửa không, thơ không hư không
dáng chùa, ngọn đuốc toả hồng lửa thiêng
nhớ xưa, một nụ hôn thiền
ấm phương Nam ngưỡng vọng miền tâm linh
hoa súng ơi, anh đa tình
nhìn đâu cũng thấy lung linh hoa đầy
ngỡ bừng đuốc tuệ đêm ngày
thôi hiểu nhầm Quả đất này: trần gian
địa ngục? Cũng thành niết bàn
khi hai tay khoẻ tưởng ngàn cánh tay
cõi người viễn tưởng, hồn chay
với Tự nhiên, ta hết dày vò ta
cùng ni cô giữa ta bà
tâm đau khổ đế, la đà buồn ai …
tự thưa, tên kẻ khổ sai:
một mái nhà và chẳng hai bạn tình 2
cô em ni cô hát kinh …
quanh chùa Một Cột gặp mình đang bay
phật đày thương chăng phàm đày? 3
hạnh bồ tát tu trong cay đắng đời
người bóc người, đỏ mồ hôi
tình lột tình, gió tình ơi, héo tình!
vấp chân ngọn cỏ sơ sinh
giẫm dăm chú kiến, giật mình. Cứ đi!
về thôi, bông súng từ bi
anh còn cày ruộng xanh rì trang thơ
địa ngục ư? Yêu ngẩn ngơ
lúa thơm vào áo, gạo no tâm hồn
cõi người viễn tưởng, yêu hơn
cũng là Quả đất đầy tròn dưới chân
mộng mơ thơ biếc bạt ngàn
nai nhà rộng trảng, ngựa hoang quên rừng
vẽ vời cùng cô em cưng
nông trang chùa dựng nâu cùng áo em
búp tim mở một cánh mềm
dáng chùa hoa súng ngày đêm một người
mặn mà mắt mặn môi tươi
phật yêu dấu là tiếng cười anh thương
chùa trong anh đi muôn đường
chùa em, hoài ghé nghe chuông, xanh đời.
Hà Nội, 03.03.1997
Tp. HCM., 13.03.1997.
1. Khổ đế (một trong tứ diệu đế Phật giáo): chân lí về khổ đau; khổ đau là có thật. Tập khổ đế:nguyên nhân khổ đau, trong đó có tham vọng tư hữu… Trần gian, theo đó, là địa ngục (tất thảy chúng sanh, gồm cả loài người, đều là tù nhân bị đoạ đày khổ sai).
2. An, theo chữ Hán, tượng hình: một người nữ dưới một mái nhà.
3. Phật (budha), chữ Phạn: người giác ngộ chân lí ngay trong đời sống, dù là đời sống phàm tục. Bất kì ai cũng có thể là Phật.
VU VƠ CHIỀU VĂN MIẾU,
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGHÌN XƯA
Thiên hà ngôn tai!
(Trời có nói gì đâu!).
Khổng Tử
1.
cô nàng mặc áo tứ thân
từ nghìn xưa đến hát gần bên tôi
điện thờ, thầy Khổng sững ngồi
nhập thân tình tứ chọn lời Kinh Thi? 1
thưa em, duyên yêu là chi
râu nghiêm bạc, úa tim si thánh hiền
đâu vô danh vô vi thiền
đây bia chất xám, niềm riêng chói trời
giọng ca như rượu chuốc mời
em quan họ khảm vào đời ảnh em!
2.
tôi quỳ bên vuông cỏ mềm
chớp phim bè bạn, gió thêm rối bời
soi tôi xuống nước, nhìn tôi
mỗi bọt chữ, mỗi lả lơi ỡm ờ!
vì đời, thầy Khổng tìm thơ
ngọt nồng em hát thực mơ, dâng đời
tiếng thơm, thơm cho nơi nơi …
(vẫn thương kính Lão tuyệt vời, quên danh
Gióng vô danh hoá Trời Xanh 2
nghìn sau nhang khói vờn quanh tâm hình!)
3.
rùa thiêng, biểu tượng thần linh?
bia tên tuổi trĩu dân mình, bước lê?
lưng rùa, dựng sách tỉnh – mê
mê, bành trướng, mê, a ê bao đời! 3
(như Thánh Kinh vút trùng khơi
da dê mục chữ nhầm lời, buồn không!)
một thẻ tre cách điệu xong
mai rùa một mảnh – mênh mông: bia ngời …
“đàn bà khó dạy” (?!) ấy ơi 4
tôi nhạt đạo, ngoại đạo rồi, thưa em
4.
tháng giêng Văn Miếu, bên thềm
ngắm nàng đàn trong êm đềm chiều xanh …
thầy Chu An ngát hương thành …
yêu là Đạo! Tôi tập tành trăm năm
ngài ơi, công nghệ lú câm
giàu nhân nghĩa sao âm thầm rạ rơm?
cái danh cái lợi – cái hòm?
cái tình, và cái lom khom rạp mình!
… tâm linh – ơn dựng miếu đình
tâm hồn, ngài hỡi – môi xinh í ời
5.
tôi về gò Đống Đa thôi
thắng Tàu, bởi học, vượt lời Tàu xưa!
Hà Nội, 02.03.1997
Tp. HCM., 14.03.1997.
1. Ở đây, chỉ chú trọng mảng đề tài lớn nhất trong Kinh Thi: yêu đương (phần Quốc phong).
2. Lão: ông già. Gióng (tên làng); Thánh Gióng là biểu tượng Chiến sĩ Vô danh.
3. Phần hạn chế trong kinh Thi(chủ yếu trong Tiểu nhã, đại nhã, Tụng). Kinh Thi chỉ là một trong chín pho sách kinh điển của Khổng giáo. Cả chín pho đều bị mất mát ít nhiều, lại bị lắp ghép, xuyên tạc, thêm bớt.
4. Quan điểm của Khổng Tử về phụ nữ.
Trần Xuân An
Sinh ngày 10. 11. 1956 tại Huế;
Nhân tộc: Kinh (Việt Nam);
Quê gốc: Quảng Trị;
Tốt nghiệp ĐHSP. Huế (1974 – 1978);
Dạy học tại Lâm Đồng, 1978 – 1983;
Hiện nay, chuyên sáng tác, nghiên cứu.
Tác phẩm đã xuất bản:
1. Nắng và mưa, thơ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991.
2. Hát chiêu hồn mình, thơ, Nxb. Đồng Nai, 1992.
3. Tôi vẫn ở trên đường, thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1993.
4. Lặng lẽ ở phố, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
5. Kẻ bị ném vào bão, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
6. Hát với đời ơi thương mến, thơ, Nxb. Trẻ, 1996.
7. Quê nhà yêu dấu, trường ca thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1998.
8. Có một nơi lá mãi xanh, tiểu thuyết, Nxb. Hội Nhà văn, 1999.
Tác phẩm đã hoàn tất bản thảo (*):
9. Mùa hè bên sông, tiểu thuyết, 1997; bản đã sửa chữa và bổ sung, 2001.
10. Ngôi trường tháng giêng, tiểu thuyết, 1998.
11. Thơ những mùa hương, thơ, 1997 (bản in vi tính, 2002).
12. Giọt mực, cánh đồng và vở kịch điên, thơ, 1997.
13. Sen đỏ, bài thơ hòa bình, tiểu thuyết, 1999.
14. Nước mắt có vị ngọt, tập truyện ngắn, 1999.
Soạn phẩm biên khảo đã hoàn tất bản thảo (*):
15. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), thơ – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng (biên soạn – nghiên cứu, phản bác, và tập hợp một số bản dịch, bài khảo luận văn học và sử học về NVT.), 2000.
16. Tiểu sử biên niên Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (từ Đại Nam thực lục, rút gọn), dạng niên biểu, sách dẫn chi tiết, phần I, 2001.
17. Những trang Đại Nam thực lục về Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) và các sự kiện thời kì đầu chống thực dân Pháp… (Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học VN.), chọn lọc, phần II, 2001.
18. Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường – kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp (sưu tập và ghi chú), tư liệu ấn hành hạn chế, 2001.
19. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, khảo luận và phê bình sử học, 2002.
Tặng thưởng, giải thưởng:
1. Báo Văn nghệ Giải phóng, 1975.
2. Giải Sáng tạo trẻ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991.
(*) Tất cả các tác phẩm, soạn phẩm biên khảo đã được xếp chữ vi tính, ấn hành trong phạm vi từ 10 đến 20 bản sách (gửi các toà soạn, nhà xuất bản, cơ quan khoa học lịch sử và một số nhà nghiên cứu, bà con, bạn văn thân thiết), trong khi chờ giấy phép và điều kiện để có thể xuất bản rộng rãi. TXA.
(tính đến năm 2002)
GHI CHÚ ĐỂ KỈ NIỆM:
CUỐN SÁCH THỨ HAI TÁC GIẢ TỰ XẾP CHỮ, DÀN TRANG,
TRÌNH BÀY TRÊN MÁY VI TÍNH TẠI NHÀ.
KHỞI CÔNG VÀ HOÀN TẤT:
TỪ 07 ĐẾN 09 THÁNG 5, NHÂM NGỌ, NĂM THỨ 2
CÔNG NGUYÊN HOÀ BÌNH
(17 – 19 THÁNG 6.2002).
GHI CHÚ THEO THỦ TỤC:
TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN TỪNG CHỮ, TỪNG Ý TƯỞNG CỦA MÌNH. TRÂN TRỌNG
VÀ THÀNH THẬT BIẾT ƠN.
THƠ NHỮNG MÙA HƯƠNG
tập thơ thứ chín
của TRẦN XUÂN AN
NHÀ XUẤT BẢN:
2002
CHỊU TRÁCH NHIỆM XUẤT BẢN:
BIÊN TẬP:
BÌA:
CHỮA BẢN IN:
In 1.000 cuốn, khổ 13x19 cm,
tại xí nghiệp in:
Số đăng kí kế hoạch xuất bản:
do Cục Xuất bản cấp ngày:
Quyết định xuất bản:
In xong và nộp lưu chiểu trong tháng:
GIÁ: